Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong Tố tụng dân sự

Việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự làm nảy sinh nhiều quan hệ khác nhau giữa toà án, viện kiểm sát, đơn vị thi hành án dân sự, đương sự, người uỷ quyền của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và những người liên quan. Các quan hệ này phát sinh trong tố tụng dân sự – từ khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến khi thi hắnh xong bản án, quyết định của toà án. Bài viết hôm nay sẽ viết về chủ đề Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong Tố tụng dân sự. Mời các bạn đọc nội dung trình bày sau đây của chúng tôi để biết thêm thông tin !. 

Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong Tố tụng dân sự

1.Các quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự

Theo Điều 26, Luật Tố tụng Dân sự 2015, những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  • Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
  • Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
  • Tranh chấp về thừa kế tài sản.
  • Tranh chấp về bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng.
  • Tranh chấp về bồi thường tổn hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo hướng dẫn của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường tổn hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
  • Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo hướng dẫn của Luật tài nguyên nước.
  • Tranh chấp đất đai theo hướng dẫn của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo hướng dẫn của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
  • Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo hướng dẫn của pháp luật về báo chí.
  • Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
  • Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự.
  • Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự.
  • Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị, tổ chức khác theo hướng dẫn của pháp luật.

2.Đặc điểm của quan hệ pháp luật

Thứ nhất, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí của con người, nó được hình thành thông qua hoạt động có ý chí của con người. Ý chí trong quan hệ pháp luật được thể hiện bao gồm ý chí nhà nước và ý chí của các bên chủ thể quan hệ đó trong sự phù hợp với ý chí nhà nước.

Pháp luật, công cụ điều chỉnh luôn chứa đựng ý chí nhà nước. Thông qua quy phạm pháp luật, mệnh lệnh của nhà nước được đặt ra đối với các bên tham gia quan hệ pháp luật, họ có thể làm gì, phải làm gì, làm thế nào… Đây là cách thức xử sự phải tuân theo khi họ tham gia quan hệ pháp luật.

Các bên tham gia quan hệ pháp luật bày tỏ ý chí của mình bằng việc tiến hành các hoạt động hoạt động nhất định trên cơ sở cách thức xử sự mà quy phạm đã nêu. Tùy theo khả năng của mình thành con người có ích cho xã hội phù hợp với pháp luật và đồng thời thỏa mãn nhu cầu của họ.

Thứ hai, các bên tham gia quan hệ pháp luật có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước bảo đảm thực hiện. Có thể là các bên được phép hoặc bắt buộc phải tiến hành những xử sự nào đó, những xử sự này do pháp luật quy định, đó là quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật.

Bằng xử sự thực tiễn của mình, các bên tham gia quan hệ pháp luật đã cụ thể hóa các cách xử sựu mà quy phạm đã nêu thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cho mình. Trong trường hợp các bên thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ pháp lý thì họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mà nhà nước đã dự kiến trong phần hình phạt của quy phạm pháp luật.

3.Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Là một yếu tố cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tính đa dạng của các quan hệ được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh dẫn đến tính đa dạng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tuy vậy không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc xác định đúng các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng có ý nghĩa rất cần thiết trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Cũng như các quan hệ pháp luật khác quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm 3 thành phần: Chủ thể, khách thể và nội dung.

3.1.Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thì chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: Tòa án, viện kiểm sát, đơn vị thi hành án, đương sự, người uỷ quyền của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và người liên quan.
Tùy theo mục đích,vai trò tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể này mà pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng và địa vị pháp lí của các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có thể phân thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự, tổ chức thi hành án dân sự, kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng như tòa án, viện kiểm sát.
Nhóm 2: Các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác như đương sự, người uỷ quyền của đương sự.
Nhóm 3: Các chủ thể tham gia tố tụng để hỗ trợ tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự như người làm chứng, người giám định và người liên quan.

3.2.Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp giữa các đương sự hay việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung có chứa đựng những sự kiện pháp lý mà tòa án có nhiệm vụ xác định.
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có trọn vẹn những đặc điểm của khách thể quan hệ pháp luật:
– Là cái mà các chủ thể mong muốn đạt được.
– Là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ.
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự còn có đặc điểm riêng là lợi ích vật chất không hoàn toàn chi phối việc tham gia quan hệ của tất cả các chủ thể. Trong nhiều trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự xuất phát từ nghĩa vụ do pháp luật quy định.

3.3.Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

4.Phạm vi hoà giải vụ án dân sự

Tại khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định ttách nhiệm hoà giải của toà án:

“Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”

Do vậy, hoà giải tiến hành đổi với việc giải quyết hầu hết các vụ án dân sự, trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải. Theo Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, toà án không hoà giải đối với những yêu cầu đòi bồi thường gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước; những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc ttái đạo đức xã hội.

Đối với yêu cầu đòi bồi thường gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước, toà án không tiến hành hoà giải vì tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Bất cứ hành vi nào gây tổn hại đến tài sản của “Nhà nước đều là trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây tổn hại không có quyền điều đình, thương lượng thoả thuận với Nhà nước về trách nhiệm bồi thường của mình. Tuy nhiên, nếu người gây tổn hại tự nguyện bồi thường và việc bồi thường phù hợp với pháp luật thì toà án có thể chấp nhận.

Đối với những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, toà án cũng không hoà giải vì các giao dịch vô hiệu. Các bên tham gia giao dịch không thể thoả thuận để giải quyết hành vi vi phạm pháp luật của mình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều giao dịch dân sự trái pháp luật có những nguyên nhân khách quan nên khi giải quyết vụ án toà án phải xem xét thận ưọng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự. Khi giải quyết loại vụ án này, toà án tuyên bổ giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.

Về nguyên tắc, toà án phải hoà giải vụ án dân sự trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Tuy vậy, theo hướng dẫn tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đối với những vụ án không tiến hành hoà giải được thì toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những vụ án không tiến hành hoà giải được bao gồm:

+ Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt;

+ Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lí do chính đáng như ốm đau, đang ở nước ngoài V.V.;

+ Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án li hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

+ Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hoà giải.

Đối với những vụ án này, toà án không hoà giải được và như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án không thể có quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Tuy nhiên, trong những trường hợp các đương sự tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hoặc rút đơn kiện mà qua việc kiểm tra thấy hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với những quy định của pháp luật, toà án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Trong tất cả những trượng hợp không hoà giải được, toà án phải lập biên bản không hoà giải được, nêu rõ lí do để lưu vào hồ sơ vụ án, sau đó đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà.

Đổi với những vụ án do đơn vị, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác, nếu phải hoà giải thì toà án không hoà giải giữa đơn vị, tổ chức khởi kiện với bị đơn mà phải hoà giải giữa bị đơn với nguyên đơn (những chủ thể của tranh chấp) hoặc người uỷ quyền của họ, trừ trường hợp pháp luật quy định không được hoà giải hoặc không hoà giải được.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com