1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp

Nếu trong một nền kinh tế mà quá trình lưu thông hàng hóa trên thị trường đó người tiêu dùng có thể được hưởng lợi từ những lợi ích mà hoạt động cạnh tranh mang lại thì chắc chắn sẽ tồn tại sự tranh đua hạ giá bán hoặc tăng cao giá mua giữa các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh của nhau. Qua sự cạnh tranh và ganh đua đó mà quyền lựa chọn của khách hàng được tôn trọng sẽ sinh ra một cách tự nhiên cơ chế hình thành giá cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ, các doanh nghiệp đua nhau mua chuộc khách hàng bằng những mức giá hấp dẫn. Tính chất tự nhiên của cơ chế giá cạnh tranh đòi hỏi sự trung thực và thái độ tích cực của các nhà kinh doanh khi đối diện với sức ép của cạnh tranh trong đời sống thị trường. Sự giục giã của lợi nhuận cũng làm xuất hiện những toan tính loại bỏ sức ép của cạnh tranh qua giá bằng cách liên kết các đối thủ cạnh tranh với một chiến lược kinh doanh thống nhất.

Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất áp dụng một mức giá hoặc một cách thức tính giá chung khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ với các khách hàng hoặc trao đổi thông tin về giá để tạo nên những phản ứng thống nhất về giá hàng hóa, dịch vụ khi đàm phán với khách hàng. Khi phân tích bản chất của thỏa thuận ấn định giá cần làm rõ những nội dung cơ bản sau đây:

 

1.1 Thời điểm xảy ra sự thỏa thuận

Thỏa thuận ấn định giá có thể xảy ra ở giao dịch mua hoặc bán mà các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ giao kết trong tương lai với khách hàng. Thông thường, với các thỏa thuận về giá bán hàng hoá, dịch vụ, các doanh nghiệp thường áp dụng mức giá cao hơn so với giá được hình thành trong môi trường có cạnh tranh, và ngược lại trong các thoả thuận về giá mua hàng hoá, dịch vụ, giá mua hàng hoá, dịch vụ sẽ là thấp hơn giá cạnh tranh (ép giá).

 

1.2 Nội dung của thỏa thuận

Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa dịch vụ bao gồm các nội dung chính, cụ thể như sau:

  • Thống nhất áp dụng giá đối với một số hoặc tất cả khách hàng;
  • Thống nhất cùng tăng giá ở các mức độ cụ thể; thỏa thuận áp dụng chung công thức tính giá;
  • Thỏa thuận duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm cạnh tranh giống nhau nhưng không đồng nhất;
  • Loại trừ việc chiết khấu giá hoặc thiết lập mức chiết khấu đồng bộ;
  • Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan;
  • Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng;
  • Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận; Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

=> Như vậy từ những tác động của nội dung thỏa thuận đến giá mua, giá bán hàng hóa dịch vụ, thỏa thuận giá có thể được phân chia thành hai nhóm, cụ thể như sau:

– Thứ nhất, các thỏa thuận trực tiếp ấn định giá mua, bán bao gồm việc các doanh nghiệp thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; hoặc tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; hoặc áp dụng công thức tính giá chung. Bằng những thỏa thuận này, các doanh nghiệp đã tạo ra mặt bằng chung về giá mua, bán hàng hóa trên thị trường. Khi đó, giá mua, bán không được hình thành từ những quy luật của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quan hệ cung cầu mà do thỏa thuận giữa các doanh nghiệp tạo nên.

– Thứ hai, các thỏa thuận gián tiếp tác động đến giá mua, bán hàng hóa dịch vụ bao gồm việc các doanh nghiệp thỏa thuận thỏa thuận duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm cạnh tranh giống nhau nhưng không đồng nhất; loại trừ việc chiết khấu giá hoặc thiết lập mức chiết khấu đồng bộ; duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan; dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận; sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu. Các thỏa thuận này không trực tiếp tạo nên mặt bằng chung về giá nhưng chúng lại có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp tham gia thực hiện việc định giá theo những chuẩn mực định sẵn thay vì định giá một cách tự do và độc lập tùy theo điều kiện riêng. Do đó, cho dù mức giá mua, bán của các doanh nghiệp không như nhau, song hành vi định giá của từng doanh nghiệp không hoàn toàn diễn ra theo các quy luật của thị trường cạnh tranh mà đã chịu sự chi phối bởi nội dung của thỏa thuận. Việc chứng minh được có sự tồn tại của một trong những thoả thuận nói trên giữa các doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh sẽ khẳng định đã có thỏa thuận ấn định giá, mà Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP không cần phải chứng minh tính vô lý của mức giá được các bên ấn định. Cho dù có nội dung là mức giá thống nhất hay một công thức tính giá chung thì kết quả cuối cùng của thỏa thuận ấn định giá sẽ dẫn đế không còn sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận với nhau. Nếu thỏa thuận không bị ngăn chặn, các doanh nghiệp sẽ cùng tăng giá hoặc ép giá đối với khách hàng trong các giao dịch mua hoặc bán hàng hóa, dịch vụ.

 

1.3 Hậu quả của hành vi thỏa thuận về giá

Dưới góc độ lý thuyết, thỏa thuận ấn định giá sẽ gây thiệt hại cho khách hàng do mức giá được ấn định trực tiếp hoặc gián tiếp đã loại bỏ sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Mặc dù không đòi hỏi mức giá được ấn định mang bản chất của sự bóc lột, Luật Cạnh tranh chỉ cần xác định rằng, có tồn tại của một thỏa thuận về giá là đủ để kết luận về sự vi phạm. Do đó, khi phân tích về hậu quả của hành vi thỏa thuận ấn định giá cần làm rõ:

  • Một, tước đoạt cơ hội của khách hàng được lựa chọn các mức giá cạnh tranh hợp lý trên thị trường;
  • Hai, làm giảm mức độ của cạnh tranh bằng cách xoá bỏ cạnh tranh về giá hàng hoá, dịch vụ giữa các thành viên của thỏa thuận.

 

2. Thảo thuận phân chia thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ

Theo Điều 15 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định cụ thể như sau:

Điều 15. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ

1. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng hóa, dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hóa, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham gia thỏa thuận.

2. Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất mỗi bên tham gia thỏa thuận chỉ được mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định”.

Theo như quy định nêu trên thì thỏa thuận phân chia thị trường bao gồm các hành vi sau đây:

  • Một, thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng hoá, dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hoá, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham gia thoả thuận.
  • Hai, thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất mỗi bên tham gia thoả thuận chỉ được mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.

=> Như vậy, theo nội dung trong thỏa thuận của các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp tham gia đã phân chia thị trường mua bán thành các khu vực và giao cho một, một số doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán trong một khu vực nhất định. Các doanh nghiệp tham gia chỉ mua, bán hàng hóa, dịch vụ với khách hàng hoặc với số lượng, khối lượng đã được phân chia và không thể xâm phạm đến khu vực của người khác.

* Phân loại thỏa thuận phân chia thị trường

Căn cứ theo quy định của Điều 15 Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã phân chia thỏa thuận này thành hai loại là thỏa thuận phân chia thị trường bán hàng hóa, dịch vụ và thỏa thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ (phân chia thị trường mua). Tuy nhiên, nếu dựa vào nội dung của thỏa thuận, có thể chia thỏa thuận này thành ba loại:

– Thứ nhất, thỏa thuận phân chia thị trường theo lãnh thổ là việc các doanh nghiệp phân chia thị trường địa lý liên quan thành các khu vực và giao cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa dịch vụ trong một, một số khu vực nhất định. Thỏa thuận này được pháp luật của các nước coi là loại thỏa thuận kinh điển nhất trong những thỏa thuận phân chia thị trường.

– Thứ hai, thỏa thuận phân chia thị trường mang tính định lượng là việc các doanh nghiệp thống nhất phân bổ lượng hàng hóa, dịch vụ mua, bán trên thị trường cho từng doanh nghiệp tham gia. Trong trường hợp này, thị trường được phân chia theo lượng cung, lượng cầu mà không phải theo khu vực địa lý hoặc theo nhóm khách hàng. Để thực hiện được thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải dự liệu được tổng lượng hàng hóa, dịch vụ được mua, bán trên thị trường liên quan và phân chia thành những phần khối lượng, số lượng mà từng doanh nghiệp được quyền mua, bán.

– Thứ ba, thỏa thuận phân chia thị trường theo nhóm khách hàng là việc các doanh nghiệp thống nhất cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa với một số nhóm khách hàng nhất định. Với thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải phân chia khách hàng thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định. các tiêu chí phân nhóm khách hàng rất đa dạng, có thể phân chia theo thu nhập, theo độ tưổi, theo giới tính, theo đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng….

Từ sự phân loại nêu trên mỗi doanh nghiệp tham gia được phân công phụ trách mua hoặc bán sản phẩm với một nhóm khách hàng. Thỏa thuận phân chia thị trường tạo ra quyền lực thị trường cho từng thành viên tham gia trong khu vực được phân chia. Nếu nhìn từ tổng thể thị trường liên quan, dường như vẫn có cạnh tranh do sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm có thể thay thế cho nhau. Song, những doanh nghiệp đang cạnh tranh bằng sự chỉ định mỗi người phụ trách một khu vực thị trường đã làm cho từng người trở thành độc quyền đối với phần thị trường được chia.

Sự hình thành độc quyền của từng doanh nghiệp trong thị trường được phân chia sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho thị trường theo hướng sau đây:

– Việc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hiện có làm cho các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ có cơ hội tung hoành trên thị trường bằng những điều khoản giao dịch bất lợi cho khách hàng;

– Quyền lựa chọn của khách hàng bị hạn chế không phải do cơ cấu vốn có của thị trường mà là kết quả của những toan tính mang tính chiến lược của những doanh nghiệp đang hoạt động.

Luật LVN Group (tổng hợp)