– Các hành vi mang tính chất lợi dụng;

– Các hành vi mang tính chất công kích hay cản trở;

– Các hành vi lừa dối, lôi kéo khách hàng.

1. Các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác

Đây là nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình, được biết đến dưới nhiều dạng thức khác nhau như gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ (misleading), lợi dụng thành quả đầu tư của người khác (free reading), xâm phạm bí mật kinh doanh… Bản chất của hành vi này là việc chiếm đoạt hay sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Đây cũng là dạng hành vi gần với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sự khác biệt chỉ nằm ở đối tượng bị xâm phạm. Trong trường hợp hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở số đối tượng nhất định được coi là tài sản trí tuệ sau khi chủ sở hữu xác lập quyền thông qua việc đăng kí và được cấp văn bằng bảo hộ. Còn trong trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, phạm vi lợi thế cạnh tranh bị xâm phạm có thể rộng hơn rất nhiều, bao gồm tất cả các giá trị, thành quả mà doanh nghiệp cạnh tranh đạt được một cách hợp pháp thông qua quá trình kinh doanh, bao gồm cả những yếu tổ công khai như uy tín tên tuổi, chỉ dẫn thương mại hay không công khai như bí quyết kinh doanh.

Do dạng hành vi này xâm phạm trước hết đến lợi thế cạnh tranh, cũng được coi là một dạng tài sản của các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp này thường tích cực đưa vụ việc đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu sự bảo vệ của pháp luật. Do đó, có nhiều vụ việc liên quan đến dạng hành vi lọi dụng được xử lí và dạng hành vi này được coi là phổ biến, điển hình của cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình xử lí vụ việc, ảnh hưởng đến người tiêu dùng cũng được tính đến khi việc lợi dụng uy tín, thành quả đâu tư của người khác gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ, uy tín hay khả năng kinh doanh của bên vi phạm.

Mặt khác, không phải mọi dạng thành quả đàu tư, lợi thế cạnh tranh đều được bảo vệ, có những đối tượng có được từ kết quả phát triển kinh tế xã hội, khoa học kĩ thuật chung của ngành, khi đó các doanh nghiệp có quyền tiếp cận và sử dụng tự do để thúc đẩy hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, cũng có quan điểm cho rằng về mặt lịch sử, sự sao chép, bắt chước, nhân rộng các thành quả khoa học, kĩ thuật hay cả văn hoá, nghệ thuật… chính là động lực phát triển của nền văn minh nhân loại, do đó, ngoại trừ các đối tượng rõ ràng được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ, không nên ngăn cấm sự sao chép, bắt chước trong kinh doanh. Ngoài ra, việc ngăn chặn và bảo hộ thái quá có thể gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự phát triển chung của ngành. Căn cứ vào thực tế từng vụ việc, cơ quan xử lí sẽ đánh giá tính chính đáng trong yêu cầu của doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

2. Các hành vì mang tính chất công kích hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Đây là nhóm hành vi có chung bản chất là tấn công vào đối thủ cạnh tranh, triệt tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh. Các hành vi cụ thể rất đa dạng, phụ thuộc vào cách thức, mục tiêu công kích, có thể là những thông tin sai trái làm mất uy tín đối thủ cạnh tranh hoặc các hành vi trực tiếp gây cản trở hoạt động kinh doanh của đối thủ, hoặc lồi kéo, mua chuộc nhân viên hoặc đối tác của đối thủ cạnh tranh. Một số quốc gia còn xếp những hành vi hạn chế cạnh tranh thuộc dạng nhẹ, như ấn định giá bán lại, phân biệt đối xử, lạm dụng ưu thế trong giao dịch (bargaining power) thuộc phạm vi cạnh tranh không lành mạnh do xem xét yếu tố cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

Mặc dù dạng hành vi công kích nói trên cũng tác động thẳng đến các đối thủ cạnh tranh của bên vi phạm nhưng do tính chất trực diện của hành vi, các bên liên quan thường có khuynh hướng sử dụng các quy định trực tiếp về gây thiệt hại và bồi thường thưởng thiệt hại của pháp luật dân sự hoặc thậm chí cả hình sự, để giải quyết tranh chấp một cách triệt để, thay vì áp dụng các quy định riêng của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, tính điển hình của nhóm hành vi này không cao bằng nhóm hành vi thứ nhất.

3. Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng của doanh nghiệp khác

Việc đặt các hành vi thuộc nhóm này, đặc biệt là các hành vi kinh doanh bất chính đã trở nên phổ biến trên thị trường như quảng cáo lừa dối, khuyến mại nhử mồi, chào hàng quấy rối hay ép buộc… vào phạm vi điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Bản chất của hành vi này là tạo ra lợi thế cạnh tranh gian dối để lôi kéo khách hàng, người tiêu dùng. Đổi tượng chịu tác động trực tiếp của các hành vi này là khách hàng hoặc người tiêu dùng, còn các doanh nghiệp cạnh tranh chỉ chịu ảnh hưởng gián tiếp từ hành vi vi phạm thông qua việc mất khách hàng. Trong nhiều trường hợp, việc lôi kéo khách hàng tham gia giao dịch bằng các biện pháp bất chính động chạm đến nguyên tẳc căn bản của giao dịch dân sự là tự do ý chí. Do đó, ở một số quốc gia, nhóm hành vi này có thể không nằm trong khuôn khổ pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh, mà chịu sự điều chỉnh của các quy định chung trong pháp luật về dân sự, thương mại, của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng và trong nhiều các quy định điều chỉnh ngành, lĩnh vực kinh tế cụ thể. Lấy ví dụ tại Việt Nam, quy định về hành vi quảng cáo, thông tin gian dối không chỉ có trong Luật cạnh tranh mà còn cả ở nhiều văn bản khác như Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật dược, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tác động của dạng hành vi nói trên không giới hạn tại một số khách hàng bị lôi kéo và các đối thủ cạnh tranh bị mất khách hàng. Quan trọng hơn, dạng hành vi này còn khiến thị trường trở nên không minh bạch, làm sai lệch giao dịch giữa các chủ thể tham gia thị trường và qua đó ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh chung. Do đó, các quy định điều chỉnh dạng hành vi này vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật cạnh tranh nói chung cũng như chế định về cạnh tranh không lành mạnh nói riêng của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển.

Cuối cùng, việc phân nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như trên mang tính khái quát phục vụ công tác nghiên cứu. Trên thực tế, giữa các nhóm hành vi nói trên có sự giao thoa và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xếp vào hơn một nhóm nếu xem xét mục đích vi phạm cũng như đổi tượng tác động của chúng. Việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh phụ thuộc nhiều vào thực tiễn xử lí, dựa trên quan điểm của cơ quan cạnh tranh, mức độ ảnh hưởng của hành vi cũng như sự cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp và của người tiêu dùng, giữa yêu cầu bảo hộ các quyền chính đáng của doanh nghiệp và khuyến khích cạnh tranh tự do, phát triển kinh tế xã hội.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập từ các nguồn trên internet)