Luật sư tư vấn:

Theo nội dung bạn cung cấp cho công ty Luật LVN Group thì bạn bị người khác đánh ghen nhầm, tuy nhiên bạn chưa nêu rõ hành vi của đối phương đối với bạn cũng như là những thiệt hại, hậu quả xảy ra nhưng thế nào. Vậy nên bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ cung cấp các quy định của pháp luật, căn cứ pháp lý để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bị xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm cũng như là cách xác định mức bồi thường thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm bị xâm hại, cụ thể dưới đây: 

 

1. Căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm bị xâm hại

Để một chủ thể yêu cầu một chủ thể khác phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho mình khi nhận thấy danh dự, nhân phẩm của mình bị xâm hại thì chủ thể yêu cầu bồi thường phải có trách nhiệm chứng minh, làm rõ được những căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại này được quy định rõ ràng tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP (Nghị quyết này bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023), cụ thể phải xác định ba yếu tố dưới đây:

– Phải có các hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác ví dụ như những hành vi: Chửi bới, nói xấu, lan truyền những thông tin không đúng với sự thật để nhằm làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ, danh dự, nhân phẩm, công việc của người khác,…..

– Khi thực hiện các hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác thì phải có thiệt hại xảy ra, thiệt hại này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc là các thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là những tổn thất về tinh thần được gây ra từ những hành vi xâm phạm đến tính mạng, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trực tiếp cá nhân người bị xâm phạm hoặc những người thân thích của người bị xâm phạm. 

– Những thiệt hại xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Có thể hiểu là những thiệt hại xảy ra đối với người bị xâm phạm là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm.

Tuy nhiên pháp luật cũng quy định một số các trường hợp người gây ra thiệt hại, chủ sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản mặc dù phát sinh đầy đủ căn cứ bồi thường thiệt hại nhưng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể thuộc các trường hợp sau đây: 

– Trường hợp thiệt hại phát sinh do sự kiện bất khả kháng. Sự kiện bất khả kháng được hiểu là sự kiện xảy ra một cách khách quan mà người gây ra không thể lường trước được những thiệt hại có thể xảy ra và cũng không thể khắc phục được những thiệt hại mặc dù người gây ra thiệt hại đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết và sử dụng mọi khả năng cho phép của mình nhưng hậu quả vẫn xảy ra; 

– Trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại; 

– Những trường hợp do các bên thỏa thuận với nhau.

 

2. Xác định các thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại

Những thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại được xác định theo các quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 9 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP, cụ thể như sau: 

– Các khoản chi phí hợp lý được sử dụng vào mục đích để hạn chế, khắc phục những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và uy tín. Những khoản thiệt hại này có thể bao gồm: 

  • Những khoản chi phí cần thiết cho việc người thực hiện hành vi thu hồi, xóa bỏ những loại vật phẩm, các loại ấn phẩm, dữ liệu có chứa những nội dung xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; 
  • Các khoản chi phí được sử dụng để thu thập các tài liệu, chứng cứ để chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại bị đã bị xâm phạm và gây ra thiệt hại cho người bị xâm phạm; 
  • Các khoản tiền mà người bị thiệt hại sử dụng để có thể yêu cầu cơ quan chức năng cải chính sự việc mình bị xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm ví dụ như tiền để người bị thiệt hại thuê tàu xe, phương tiện đi lại, tiền thuê phòng trọ (nếu có) theo giá trình bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại chi trả. 
  • Chi phí để cải chính thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; 
  • Chi phí để tổ chức xin lỗi, tổ chức cho người thực hiện hành vi xâm phạm cải chính công khai những thông tin xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác tại nơi cư trú, nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế khác để có thể khác phục các thiệt hại xảy ra (nếu có).

– Những khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại khi bị xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín. Các khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút này được xác định trước khi người bị thiệt hại bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, uy tín thì người này có những khoản thu nhập thực tế. Tuy nhiên sau khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại thì người bị hại phải thực hiện các công việc để có thể hạn chế, khắc phục những thiệt hại xảy ra, do phải thực hiện những công việc nêu trên dẫn đến việc những khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường với những khoản thiệt hại bị mất hoặc bị giảm sút đó. Việc xác định thu nhập thực tế bị mất được xác định theo nguyên tắc như sau: 

  • Đối với trường hợp người bị thiệt hại do hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín có một mức thu nhập ổn định từ các nguồn tiền lương, tiền công thì mức bồi thường thiệt hại được xác định theo mức tiền lương, tiền công của người bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền lương, tiền công của người này bị mất hoặc bị giảm sút.
  • Đối với trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập nhưng mức thu nhập này được xác định là mức thu nhập không ổn định từ các nguồn tiền lương, tiền công thì xác định mức bồi thường được xác định dựa trên mức tiền lương, tiền công trung bình của 03 tháng liền kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại do hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín. Đối với trường hợp khi xác định thu nhập, nhưng không xác định được mức 03 tháng tiền lương liền kề trước khi xảy ra thiệt hại thì khi xác định mức bồi thường sẽ căn cứ vào thu nhập trung bình của những người lao động cùng làm công việc với người bị thiệt hại tại cùng địa phương và cùng thời gian để làm căn cứ xác định mức thu nhập cho người bị thiệt hại. Nếu trong trường hợp không thể xác định được mức thu nhập trung bình của những người lao động tại địa phương làm cùng công việc thì mức thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút sẽ được xác định theo mức là 01 ngày lương tối thiểu cùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú. Mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định theo từng vùng và chia cho 26.

– Những khoản thiệt hại khác do pháp luật quy định; 

– Ngoài những khoản thiệt hại đã được nêu ở trên thì người gây ra thiệt hại về danh dự nhân phẩm, uy tín thì cũng phải bồi thường một khoản tiền khác để bì đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, đối với trường hợp các bên không thảo thuận được với nhau thì mức tối đa đối với trường hợp thiệt hại về tinh thần do danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm hại  là không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

 

3. Nguyên tắc bồi khi gây ra các thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại này sẽ được quy định cụ thể tại Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 3 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP, cụ thể: 

– Khi xảy ra thiệt hại thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ và kịp thời số thiệt hại thực tế đã xảy ra. Việc bồi thường này có thể được bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng hiện vật hoặc bồi thường bằng một phương thức khác và các bên có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần. 

– Người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại nếu có căn cứ cho rằng thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của người phải bồi thường, người này phải có căn cứ để chứng minh với Tòa án về điều kiện kinh tế của mình không đủ điều kiện để có thể thi hành án.

– Đối với trường hợp khi yêu cầu bồi thường thiệt hại mà mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây ra thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường thiệt hại đã được đưa ra. Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế được hiểu là việc có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội; có sự thay đổi, biến động về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương tật của người bị thiệt hại, thay đổi về khả năng lao động của người bị thiệt hại cũng như là thay đổi về khả năng kinh tế của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mức bồi thường hiện tại không còn phù hợp với những thay đổi đã được nêu ở trên. Khi yêu cầu thay đổi mức bồi thường do không còn phù hợp với thực tế thì các bên phải có đơn yêu cầu thay đổi mức bồi thường và kèm theo đơn cần cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền những chứng cứ, tài liệu để làm căn cứ cho việc thay đổi mức bồi thường thiệt hại. 

– Đối với trường hợp thiệt hại xảy ra nhưng những thiệt hại này do một phần lỗi của người bị thiệt hại thì người bị thiệt hại sẽ không được bồi thường với phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi mà mình gây ra.

– Nếu trường hợp có căn cứ cho rằng bên bị thiệt hại không áp dụng các biện pháp cần thiết, biện pháp hợp lý để có thể ngăn chặn, hạn chế tối đa nhất những thiệt hại xảy ra với chính mình thì sẽ không được bồi thường thiệt hại. Việc không áp dụng các biện pháp cần thiết này được hiểu là việc người bị thiệt hại biết hoặc có thể nhìn thấy trước được việc quyền lợi của mình sẽ bị xâm phạm và nếu không áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và có có căn cứ cho rằng bên bị thiệt hại hoàn toàn có đủ căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn, hạn chế tối đa nhất những thiệt hại có thể xảy ra.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã nghiên cứu dựa trên những thông tin mà Quý khách hàng đã cung cấp. Trường hợp Quý khách hàng còn bất cứ vướng mắc gì thêm Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn trực tuyến qua tổng đài, gọi số: 1900.0191 để được hỗ trợ trực tiếp. Rất mong nhận được sự hợp tác từ Quý khách hàng. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!