1. Căn cứ quyết định hình phạt là gì?

Căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:

Điều 50. Căn cứ quyết định hình phạt
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.

>> ​Luật sư tư vấn pháp luật hình sự, gọi: 1900.0191

 

2. Phân tích và bình luận về Căn cứ quyết định hình phạt

Trên đây là những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội, những căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều luật này hoàn toàn giống với quy định tại Bộ Luật hình sự cũ. Trong đó căn cứ đầu tiên và có thể xem là căn cứ quan trọng nhất, bao quát nhất được nêu ra đó là: căn cứ vào quy định của Bộ Luật này (tức toàn bộ những quy định nằm trong BLHS). Có thể thấy trong quá trình xét xử vụ án hình sự sẽ luôn luôn có 2 Bộ Luật được áp dụng đó là Bộ Luật hình sự (luật nội dung) và Bộ Luật tố tụng hình sự (luật hình thức). Tuy nhiên khi quyết định hình phạt (định tội, định khung) thì sẽ chỉ căn cứ duy nhất vào Bộ Luật hình sự (luật nội dung). Căn cứ này bao hàm hết tất cả những căn cứ còn lại, bởi lẽ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ v.v…đều là những căn cứ đã được quy định tại Bộ Luật này. Việc liệt kê ra những nguyên tắc đó đảm bảo cho sự căn cứ được rõ ràng và dễ nắm bắt hơn. Bản chất của tội phạm là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và giờ Tòa án sẽ quyết định một hình phạt thích đáng với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Nhưng do tính cá biệt nên không thể nào mọi hành vi nguy hiểm đều có mức độ nguy hiểm như nhau cũng như người thực hiện hành vi phạm tội cũng rất khác nhau về độ tuổi, sức khỏe, khả năng nhận thức, lý lịch tư pháp v.v…nên yếu tố nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ luôn là một trong những căn cứ quan trọng mà Tòa cần phải dựa vào để quyết định hình phạt một cách đúng người đúng tội, công bằng và minh bạch.
Thực tiễn xét xử và bào chữa của các Luật sư cho các bị cáo và phần tự bào chữa của các bị cáo thường thì sẽ tập trung phần lớn vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì đây là phần dễ mang lại lợi ích nhất. Những căn cứ còn lại như nhân thân hay mức độ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì đã quá rõ ràng vì tất cả nó đã được thể hiện trong hồ sơ của vụ án và bản cáo trạng của Viện Kiểm sát. Rất khó để các Luật sư có thể làm được điều thần kỳ là chứng minh từ có tội theo lời buộc tội của Viện Kiểm sát thành vô tội mà tuyệt đại đa số là sẽ tập trung vào việc giảm mức án được đề nghị xuống (tử hình xuống chung thân, chung thân xuống tù có thời hạn và rút ngắn thời hạn tù có thời hạn, từ tù giam xuống tù treo v.v…đại loại là như vậy). Đó cũng là một trong những hạn chế khá lớn đối với thủ tục tố tụng hình sự của chúng ta. Luật sư không có quyền tham gia hoặc tự thu thập chứng cứ ngay từ giai đoạn đầu tiên của vụ án mà chỉ có cơ quan điều tra mới có quyền thực hiện điều này. Chứng cứ trong một vụ án hình sự rất quan trọng do đó việc không thu thập một cách đầy đủ, chính xác hay thậm chí có việc giả mạo, ém lại một số chứng cứ quan trọng có thể làm vụ án xoay chiều từ vô tội thành có tội và ngược lại. Do đó một Luật sư của LVN Group giỏi hoặc rất giỏi tại Việt Nam cũng chỉ là một Luật sư của LVN Group giỏi bào chữa dựa trên những gì sẵn có và đa số sẽ là theo hướng giảm nhẹ hình phạt. Vậy nên tiếng nói và vị trí của Luật sư trong mảng tố tụng hình sự vẫn còn hạn chế nhiều, chưa phát huy được hết những sở trường cũng như khả năng suy luận, óc phán đoán. Tại một số hệ thống pháp luật đặc biệt là hệ thống thông luật (Common Law), Luật sư cũng được quyền tự mình thu thập và đánh giá chứng cứ tại hiện trường như một điều tra viên chuyên nghiệp và do đó hồ sơ của vụ án không chỉ có những chứng cứ được cung cấp của bên công tố (buộc tội) mà còn có cả những chứng cứ của bên bào chữa (gỡ tội). Vậy nên chứng cứ đảm bảo đầy đủ, toàn diện hơn và vì thế cho nên Luật sư có nhiều đất diễn hơn, không hiếm những trường hợp nhờ những chứng cứ quan trọng mà nhiều bị cáo gần như chắc chắc bị kết tội nhưng rồi những Luật sư đã làm mọi thứ thay đổi, bị cáo được tuyên vô tội. Do vậy vị trí và danh tiếng của nghề Luật sư ở những nơi đó rất được xã hội kính trọng, thu nhập đáng mơ ước và thực sự nghề Luật sư của LVN Group là một nghề cao quý.
Căn cứ quy định tại Khoản 2 là một căn cứ hoàn toàn mới so với những quy định trước đây, cụ thể: Khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội. Theo đánh giá của tác giả đây là căn cứ được bổ sung hết sức kip thời và cần thiết trong bối cảnh Bộ luật hình sự mới đã có thêm chủ thể là pháp nhân và đa số các chế tài áp dụng không trực tiếp thì cũng gián tiếp liên quan đến tài sản của pháp nhân đó. Do đó phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án là một điều tất yếu. Nhà làm luật chú trọng và đưa nguyên tắc này vào trong làm căn cứ quyết định hình phạt một phần không nhỏ là xuất phát từ thực tiễn xét xử và thi hành án của cơ quan tư pháp (bao gồm cả án hình sự, dân sự, hành chính). Thời gian qua đã có rất nhiều những bản án đã tuyên nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn được, người bị hại vẫn không được đền bù, bồi thường vì đơn giản mức án đã tuyên không hề dựa trên tình hình tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội do đó mức án được tuyên quá cao, vượt quá khả năng đáp ứng của người thi hành mặc dù trên lý thuyết mức án đó là hoàn toàn đúng nhưng nó không thể thực hiện được do có độ chênh so với thực tế. Căn cứ mới được quy định này sẽ góp phần kết nối giữa Tòa án và cơ quan thi hành án, góp phần hạn chế án bị tồn do không thi hành được trên thực tế khi người có nghĩa vụ thi hành án không có đủ khả năng tài chính để đáp ứng trong hiện tại và tương lai.
 

3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 cụ thể như sau:

Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

 

4. Bình luận các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Điều luật này có 03 Khoản, trong đó Khoản 1 liệt kê ra các tình tiết giảm nhẹ (luật định), Khoản 2 mở rộng thêm tình tiết đầu thú và tình tiết khác (phụ thuộc vào ý chí của Tòa án và phải ghi rõ trong bản án), Khoản 3 là trường hợp không được coi hay nói đúng hơn là không áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu dần theo thứ tự ngược lại từ Khoản 3 đến Khoản 1.
Khoản 3: Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Có thể hiểu một cách nôm na vắn tắt, tình tiết định tội là tình tiết mà trong cấu thành tội phạm đó bắt buộc phải có, nếu không có tình tiết đó thì sẽ không phạm tội đó. Ví dụ: Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 51 c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Đây chính là tình tiết định tội của tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 126 Bộ Luật này. Nếu không có tình tiết vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ không phạm tội này mà là phạm vào một tội khác (như Tội giết người chẳng hạn).
Khi đã thỏa mãn dấu hiệu cấu thành một tội phạm (phạm tội gì) thì việc tiếp theo là xác định mức phạt cụ thể đối với tội đó là bao nhiêu, khi này khái niệm khung hình phạt bắt đầu được xem xét đến. Thông thường một Điều luật sẽ có 1 hoặc nhiều khung hình phạt và sắp xếp theo hướng khung hình phạt sau cao hơn khung hình phạt trước (thường Khoản 2, 3, 4…trở đi mức phạt sẽ cao hơn Khoản 1) cá biệt có một số Điều luật được thiết kế theo hướng ngược lại (ví dụ như Điều 123 Tội giết người Khoản 1 khung hình phạt là cao nhất – tử hình, nhưng Khoản 2 mức tối đa chỉ 15 năm).
Như vậy có thể thấy tình tiết giảm nhẹ chỉ có giá trị sau khi đã xác định người phạm tội phạm tội nào và khung hình phạt là bao nhiêu để tuyên mức phạt dưới mức trung bình của khung. Do đó khi tình tiết giảm nhẹ nào đó đã được dùng để định tội (khá phổ biến) và dùng để định khung (rất hiếm gặp – nhưng nhà làm luật vẫn quy định phòng hờ) thì sẽ không áp dụng để xem xét định lượng hình phạt nữa vì như vậy 1 tình tiết giảm nhẹ lại áp dụng đến 02 lần. Trở lại với ví dụ phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì đó đã là tình tiết định tội tại Điều 126 rồi, không thể khi quyết định hình phạt lại nêu thêm 1 tình tiết giảm nhẹ là do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 1 lần nữa.
Khoản 2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
So với quy định tại Bộ Luật hình sự cũ thì nhà làm luật đã có thêm một gợi ý cho Tòa khi quyết định các tình tiết giảm nhẹ khác với quy định tại Khoản 1 đó là đầu thú. Như tác giả đã có dịp đề cập đến trong phần bình luận ở các chương trước, đầu thú có thể hiểu là người thực hiện hành vi phạm tội đã tự nhận hành vi phạm tội của mình sau khi hành vi đó đã bị phát hiện nhưng người phạm tội đó vẫn chưa bị bắt giữ. Đầu thú hoàn toàn không giống với tự thú và do đó nó chỉ có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ chứ không thể là tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự. Và đây là một gợi ý không hề tồi để Tòa án căn cứ quyết định hình phạt và xem đó là một tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên tình tiết này bắt buộc phải được ghi rõ lý do trong bản án chứ không đương nhiên là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1.
Ngoài đầu thú, Tòa án cũng được quyền xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ (không bị giới hạn) nhưng với điều kiện phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong Bán án. Tuy nhiên những tình tiết khác ở đây là những tình tiết nào, có bẳt buộc phải đảm bảo các tiêu chí nhất định hay không thì trong phạm vi Bộ Luật Hình sự không hề có quy định. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các tình tiết sau đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác:
– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
– Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
– Người bị hại cũng có lỗi;
– Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
– Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
 Như vậy có thể thấy đây là một quy định mở và trao quyền cho Tòa án rất lớn, chính vì vậy phần nào cũng sẽ dẫn đến những ý chí chủ quan khi xét xử ở các Tòa, các cấp khác nhau.
Khoản 1, tác giả sẽ chỉ tập trung phân tích một số tình tiết giảm nhẹ tương đối phổ biến và cần có sự bình luận thêm để hiểu rõ hơn về những tình tiết đó:
 

4.1 Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả

Đây là tình tiết giảm nhẹ được áp dụng khá phổ biến trong các vụ án hình sự và cũng được các Luật sư bào chữa cho các bị cáo áp dụng một cách triệt để nhất. Khi một hành vi phạm tội được thực hiện và đã gây ra thiệt hại (sức khỏe, vật chất) và người thực hiện hành vi phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thì tình tiết khắc phục, bồi thường đó được xem là một tình tiết giảm nhẹ. Một vấn đề quan trọng cần lưu tâm ở đây là tự nguyện, nghĩa là chưa có một sự ép buộc nào từ phía cơ quan có thẩm quyền (bằng một bản án hoặc quyết định) yêu cầu phải thực hiện nhưng người phạm tội đã thực hiện một cách chủ động. Ví dụ: Sau khi thực hiện hành vi đâm người bị trọng thương A đã chủ động đưa đi cấp cứu và thanh toán tiền viện phí cũng như bồi thường một khoản tiền để chăm sóc cho nạn nhân. Tuy vậy người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường, khắc phục hậu quả không đồng nghĩa phải chính người đó thực hiện việc bồi thường mà có thể người đó chủ động thông qua người nhà hoặc một ai đó thực hiện, khi đó vẫn được xem là tự nguyện, ví dụ trong trường hợp trên A không phải là người đưa nạn nhân đi cấp cứu nhưng A yêu cấu người nhà của mình chở nạn nhân đến bệnh viện và chi trả các khoản chi phí phát sinh thì vẫn được xem là tình tiết giảm nhẹ.
 

4.2 Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra

Tình tiết này giảm nhẹ này có 2 vấn đề cần chú ý, thứ nhất nguyên nhân dẫn đến thực hiện tội phạm là do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đó không phải do mình tạo ra. Hiểu một cách nôm na người phạm tội xuất phát phần lớn do từ sức ép của hoàn cảnh chứ ý chí chủ quan không hoàn toàn mong muốn việc thực hiện tội phạm. Nói một cách dân dã thì phạm tội vì bất đắc dĩ phải thực hiện, nếu hoàn cảnh không đặc biệt khó khăn thì đã không thực hiện tội phạm. Nguyên nhân phát sinh tội phạm có nhiều và hoàn cảnh là một trong nhiều những yếu tố phổ biến nhất dẫn đến tội phạm – bần cùng sinh đạo tặc, nhưng không phải tất cả người rơi vào hoàn cảnh khó khăn mà thực hiện phạm tội đều xem xét là tình tiết giảm nhẹ mà có khó khăn này phải là đặc biệt – đã là đặc biệt thì rất hiếm. Ví dụ: do một cơn bão lớn đã làm đắm tàu, hết sạch thực phẩm, một số thủy thủ sống sót trong tình trạng trạng đói khát sau khi thoát nạn và tới được đất liền đã thực hiện hành vi trộm một số lượng lương thực với tổng giá trị đủ cấu thành tội trộm cắp tài sản.
 

4.3 Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức

Đây là trường hợp phạm tội mà trước khi thực hiện tội phạm, ý chí của người phạm tội đã bị tác động bởi một bên thứ ba, tất nhiên vẫn thỏa yếu tố về mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm nhưng trước khi có hành vi thực hiện tội phạm, người phạm tội đã bị đe dọa, cưỡng bức. Thông thường các trường hợp này người thực hiện tội phạm có một sự phụ thuộc nhất định vào người thứ 3 (quan hệ gia đình, quan hệ cấp trên cấp dưới v.v…) hoặc người thứ 3 lợi dụng việc rơi vào tính trạng quẩn bách, cùng túng của đối tượng mà ép họ thực hiện hành vi phạm tội.
Ví dụ: B bị A đe dọa bắt buộc phải thực hiện hành vi bắt cóc tống tiền C nếu không A sẽ giết cả nhà B (A là xã hội đen có máu mặt và B cũng đã từng là đàn em của A nhưng sau đó giải nghệ).
 

4.4 Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra

Một ví dụ dễ thấy nhất để có thể hiểu được tình tiết giảm nhẹ này là các trường hợp phạm tội sau khi đã sử dụng rượu, bia và các chất kích thích khác như các loại ma túy v.v…dẫn đến hạn chế hoặc mất luôn khả năng nhận thức điều khiển hành vi. Tuy nhiên những trường hợp hợp này chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi không có lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: A bị ép buộc phải sử dụng ma túy đá (nếu không sử dụng sẽ bị đánh chẳng hạn) thì sau khi sử dụng và rơi vào tình trạng ngáo đá thì khi thực hiện tội phạm tình tiết này có thể xem là tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên việc A chủ động sử dụng hoặc bạn bè gợi ý sử dụng hoặc sự ép buộc mang tính chất khơi gợi (A có quyền từ chối) và cũng rơi vào tình trạng ngáo thì khi thực hiện tội phạm, tình tiết này không được xem là tình tiết giảm nhẹ vì A đã có lỗi, đã tự đưa mình vào trạng thái hạn chế (mất) khả năng nhận thức.
 

4.5 Phạm tội do lạc hậu

Tình tiết giảm nhẹ này thông thường áp dụng đối với người phạm tội là đồng bào dân tộc thiểu số ở một số nơi mà tập tục còn lạc hậu. Tình tiết giảm nhẹ này cũng khá hợp lý, không phải mặt bằng trình độ nhận thức của mọi người trong xã hội này là như nhau, đặc biệt là một số vùng xa xôi hẻo lánh, không có điều kiện tiếp xúc với nền giáo dục nhiều, trình độ dân trí còn hạn chế nên đa số họ thực hiện các hành vi theo những tập tục của họ mà những tập tục đó đến nay đã không còn phù hợp thậm chí là còn vi phạm pháp luật. Một trong các biểu hiện thường thấy nhất của tình tiết này là việc các đồng bào dân tộc miến núi chữa bệnh bằng các phương pháp cổ xưa như trói lại và đánh để con ma trong người xuất ra khỏi người bệnh hoặc dìm xuống nước cho con ma bị ngạt thở mà xuất đi v.v…những cách làm này nhiều khi dẫn đến tình trạng chết người do người bệnh không chịu nổi đòn roi hay bị ngạt thở. Những trường hợp như vậy vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng do sự lạc hậu mà ra (một phần do hiệu quả tuyên truyền nâng cao nhận thức còn hạn chế) nên việc xem xét giảm nhẹ là hợp lý.
 

4.6 Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng

Tình tiết này thể hiện rõ sự khoan hồng của Nhà nước đối với những thành phần yếu thế của xã hội. Thực tế rất hiếm những trường hợp người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng thực hiện hành vi phạm tội do sự tương quan về sức khỏe, thể lực. Do đó những hành vi phạm tội (nếu có) được thực hiện bởi những chủ thể này thường là những hành vi không sử dụng nhiều đến thể lực như tội cố ý gây thương tích, cướp v.v…Thông thường đó là những tội liên quan đến trộm cắp, cũng có thể là giết người nhưng thường là sử dụng thủ đoạn như đầu độc và nạn nhân thường là những người thân trong gia đình. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là những người khuyết tật thường bị xúc phạm về mặt tư tưởng hay bị xem là gánh nặng dẫn đến họ nảy sinh tư tưởng phạm tội để trả thù. Đã từng có vụ án con bị tàn tật ôm uất hận trong lòng đã đầu độc để giết cha mình vì thường xuyên bị cha mình xem là gánh nặng, chửi bới.
 

4.7 Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải

Đây là tình tiết giảm nhẹ có thể nói là được áp dụng nhiều nhất trong các bản án hình sự được tuyên. Luật sư bào chữa và bị cáo luôn tận dụng một cách triệt để tình tiết này để có thể được giảm án. 
 

5. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 cụ thể như sau:

Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc18 tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc19 phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Thoáng qua chúng ta có thể thấy cấu trúc của Điều luật này khá giống với cấu trúc của Điều luật về các tình tiết giảm nhẹ khi Khoản 1 liệt kê các tình tiết và Khoản 2 quy định nguyên tắc áp dụng. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ chúng ta có thể thấy nếu các tình tiết giảm nhẹ được quy định theo cấu trúc mở (các tình tiết giảm nhẹ khác) thì cấu trúc quy định các tình tiết tăng nặng được quy định (chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự) đóng hoàn toàn. Như vậy, nếu như các tình tiết giảm nhẹ Tòa án được quyền ghi nhận thêm ngoài những quy định tại Khoản 1 và ghi rõ trong bản án thì đối với những tình tiết tăng nặng Tòa án hoàn toàn không được quyền thêm vào, cho dù có ghi lý do trong bản án đi chăng nữa.
Tương quan về số lượng thì các tình tiết giảm nhẹ cũng nhiều hơn các tình tiết tăng nặng (chưa kể quy định mở). Kiểu quy định như vậy thể hiện rất rõ quan điểm của nhà làm luật, chính sách của nhà nước một cách nhất quán – hạn chế tối đa khả năng lạm quyền của cơ quan tố tụng cũng như tận dụng tối đa những yếu tố có lợi cho người phạm tội.
Sau đây tác giả sẽ phân tích một vài tình tiết tăng nặng:
 

5.1 Phạm tội có tổ chức

Đây là tình tiết tăng nặng đầu tiên mà cũng là tình tiết tăng nặng được áp dụng khá phổ biến. Tính tổ chức ở đây làm cho tội phạm trở nên nguy hiểm hơn nhiều khi thực hiện cũng như khả năng phát hiện, xử lý sẽ khó khăn hơn do đó phạm tội có tổ chức xứng đáng là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.  Có tổ chức, tức phải có ít nhất từ 2 người trở lên và những người này phải có sự câu kết chặt chẽ, phân công nhiệm vụ rõ ràng. Mức độ câu kết càng chặt chẽ, sự phân công nhiệm vụ càng rõ ràng chi tiết thì mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội càng cao. Ơ cấp độ thấp có thể là một nhóm người cùng tổ chức thực hiện việc trộm cắp, cướp, cướp giật sau khi thực hiện xong 1 vụ thì chúng giải tán, cao hơn thì tổ chức này thực hiện nhiều vụ chứ không giải tán theo từng vụ, cao hơn nữa là những tổ chức phạm tội chuyên nghiệp, có khi thành cả tập đoàn tham gia và dính líu rất nhiều đến việc bảo kê các loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện nhạy cảm như karaoke, massage, các quán bar, vũ trường v.v…có khi là liên quan đến cả cơ quan công quyền như đã từng có vụ án Năm Cam một thời.
 

5.2 Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

Chuyên nghiệp nghĩa là người phạm tội xem việc phạm tội là một nghề để kiếm sống, tạo ra thu nhập, tất nhiên là không phụ thuộc vào việc thu nhập đó cao hay thấp, có đáp ứng được nhu cầu cuộc sống hay không, miễn nó được xem là một nghề. Ví dụ: A là người vô công rỗi nghề và lấy việc trộm cắp, cướp giật làm nghề mưu sinh, ngày nào A cũng lượn lờ khu vực đông người như chợ, trường học, khu công nghiệp để thực hiện việc cướp giật, tối thì lẻn vào các khu nhà trọ để trộm cắp, có khi ngày được vài triệu có khi tay không nhưng đó đã được xem là phạm tội chuyên nghiệp.
Phàm những gì ở đời mà đã nâng đến tầm chuyên nghiệp thì không phải là đơn giản, phạm tội mà chuyên nghiệp nữa thì hậu quả còn nguy hại hơn. Những người phạm tội chuyên nghiệp họ thường có những tài năng do bẩm sinh hoặc khổ luyện đáng đến mức nể phục. Có những tên trộm mà không một loại ổ khóa nào mà không thể mở, kể cả khóa còng số 8, có những vụ án về ma túy mà một người chỉ học hết cấp 2 đã tự mua thuốc Tây ở tiệm thuốc về điều chế ra ma túy với những công cụ hết sức thô sơ nhưng sản phẩm lại hết sức chất lượng, có thể gọi là một chuyên gia.
 

5.3 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội

Đây là tình tiết tăng nặng chỉ áp dụng đối với người có chức vụ, quyền hạn chứ không phải với bất kỳ người phạm tội nào. Tuy nhiên chỉ khi nào người đó sử dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội thì mới áp dụng tình tiết tăng nặng đó. Ví dụ: A là Kế toán trưởng của 1 doanh nghiệp Nhà nước lợi dụng chức vụ của mình, phối hợp với các đồng phạm khác thực hiện kê khai khống nhiều hóa đơn để thu lợi bất chính thì sẽ áp dụng tình tiết tăng nặng này. Tuy nhiên cũng là A nhưng do mâu thuẩn cá nhân với B nên đã thực hiện việc đánh B gây thương tích 25%, trong trường hợp phạm tội này, chức vụ kế toán trưởng của A không phải là 1 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Chính việc có chức vụ, quyền hạn sẽ làm cho việc thực hiện tội phạm trở nên dễ dàng hơn và có chức vụ, quyền hạn nên việc phát hiện cũng sẽ khó hơn và thiệt hại gây ra thương cũng lớn hơn. Thông thường tình tiết tăng nặng thường áp dụng đối với các tội phạm kinh tế trong các doanh nghiệp nhà nước liên quan đến tham ô, tham nhũng, hối lộ. Rất nhiều các vụ án tham nhũng lớn (đại án) đều có hình ảnh của việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, đặc biệt là các tội phạm xuất phát từ lợi ích nhóm, cố ý làm trái các quy định nhà nước gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như gần đây nhất có vụ án của Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng…
 

5.4 Phạm tội có tính chất côn đồ

Tình tiết này áp dụng đối với những người phạm tội manh động và lý do thực hiện tội phạm rất vô lý thể hiện rõ tính chất côn đồ. Thường đây là tình tiết áp dụng nhiều trong các vụ án xâm phạm đến tính sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Phổ biến nhất trong xã hội hiện tại là các vụ gây gổ đánh đập, chém giết lẫn nhau vì bị cho là nhìn đều hoặc va quẹt giao thông nhẹ nhưng lại xô xát cãi nhau và gây án. Đây là những trường hợp thấy rõ nét nhất tính chất côn đồ của tội phạm. Cũng cần lưu ý rằng thông thường tình tiết này hay áp dụng cho các dân anh, chị (xã hội đen) nhưng không đồng nghĩa chỉ có những người có lý lịch bất hảo này mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Chỉ cần thỏa điều kiện có tính chất côn đồ thì sẽ áp dụng, có nhiều người tuy lần đầu tiên thực hiện tội phạm nhưng cũng lộ rõ tính chất côn đồ, có nhiều dân anh chị nhưng khi thực hiện tội phạm lại không áp dụng tình tiết này.
 

5.5 Phạm tội vì động cơ đê hèn

Có những tội phạm được thực hiện do có động cơ thúc đẩy, có những tội phạm thì không và việc thực hiện tội phạm có động cơ hay không có động cơ không ảnh hưởng đến quyết định hình phạt nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác định có phạm tội hay không (có đảm bảo các yếu tố cấu thành tội phạm). Tuy nhiên động cơ đê hèn là 1 tình tiết tăng nặng và vì vậy nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định hình phạt. Như vậy như thế nào là động cơ đê hèn? Động cơ là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm, đê hèn là thấp kém, hèn hạ đáng khinh bỉ, không thể chấp nhận được. Đây là tình tiết tăng nặng mà ít nhiều sẽ phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của hội đồng xét xử cũng như nhận định của Viện Kiểm sát. Thực tế có nhiều tình tiết có thể xếp vào động cơ đê hèn như giết vợ (chồng) để được lấy bồ nhí, giết người yêu để để trốn tránh trách nhiệm làm cha đối với thai nhi, giết chủ nợ để trốn nợ v.v…
Công ty luật LVN Group (biên tập)