Thông qua người quen biết giới thiệu, Phong gặp ông Tùng là Trưởng kho đào tạo của Nhà trường . Ông Tùng nói với Phong rằng chi tiền thì mới thi đậu được, nhất là môn Ngoại ngữ đầu vào lấy rất cao, không có tiền thì không có khả năng đậu được đâu. Tin lời ông Tùng nên Phong vay tiền đưa ông ta 40 triệu đồng. Kết quả thi thì Phong bị rớt. Phong tìm gặp ông ta thì ông ta giải thích do bị sơ suất nên Phong bị rớt nhưng ông ta không trả lại tiền và hứa là lần sau thi ông ta sẽ cho Phong thi đậu. Phong thi lần hai và cũng tìm gặp ông Tùng. Lần này Phong vẫn phải chạy lo đưa thêm ông ta 40 triệu đồng. Kết quả vẫn thi rớt, ông Tùng vẫn không trả tiền và kêu Phong thi lần ba sẽ cho thi đậu. Phong thi lần ba và cũng tìm gặp ông Tùng. Lần này ông Tùng nói thẳng số tiền 40 triệu đồng không thể lo thi đậu được, và ông Tùng ra giá thẳng là Phong phải đưa thêm 80 triệu đồng mới cho thi đậu được. Phong năn nỉ một lúc thì ông ta đồng ý giảm xuống, chỉ đưa thêm 60 triệu đồng. Phong tiếp tục vay tiền đưa thêm cho ông ta 60 triệu đồng, ông ta căn dặn Phong khi vào thi môn Ngoại ngữ tốt nhất là bỏ trống hết để giám khảo chấm bào tự đánh dấu kết quả. Sau khi thi xong khoảng 1 tuần thì ông này điện thoại yêu cầu Phong đưa thêm 10 triệu đồng nữa mới đậu được và Phong đã làm theo. Kết quã thi lần ba này Phong đã thi đậu. Sau khi Phong vào học, phải đóng rất nhiều khoản tiền chi lo cho Thầy cô giáo (theo quy định không phải đóng), riêng ông Tùng cứ thi thoảng là viện đủ lý do để Phong đưa tiền cho ông ấy, chỉ riêng tiền đưa cho ông Tùng trong thời gian học đã lên đến gần 200 triệu đồng. Đến năm 2013, chịu không nổi với những khoản tiền phải lo, nhất là tiền cứ phải lo cho ông Tùng nên Phong quyết định không tiếp tục học nữa. 

Đến giữa năm 2014, Phong tìm gặp ông Tùng thương lượng,yêu cầu ông Tùng phải trả tiền cho Phong. Phong và ông Tùng đã nhắn tin với nhau, gặp nhau rất nhiều lần và Phong nhiều lần ghi âm lại. Tin nhắn và ghi âm nhiều lần thể hiện ông Tùng đã nhận tiền của Phong trong ba lần thi đầu vào. Sau một thời gian Phong kiên trì thì ông tùng chủ động gặp Phong để thương lượng. Ông Tùng nói rằng ông ấy sẽ trả một phần tiền cho Phong bằng cách:

– Ông Tùng trực tiếp đưa lại cho Phong 20 triệu đồng kêu Phong viết biên nhận là mượn tiền của ông Tùng. – Ông Tùng giới thiệu một người bạn tên Công thay ông Tùng trả cho Phong 20 triệu đồng và viết Biên nhận là mượn tiền.

– Ông Tùng giới thiệu một người bạn tên Thanh thay ông Tùng trả cho Phong 20 Triệu đồng và viết Biên nhận là vay tiền. Ông Tùng giải thích rằng phải viết Biên nhận để người ta không hiểu lầm vì sao bỗng dung ông Tùng trả tiền cho Phong. Lúc đó, Phong nghĩ không còn cách nào khác, phải làm theo ý ông ta để tranh thủ lấy lại được bao nhiêu thì lấy. Phần tiền còn lại, ông Tùng hứa khoảng 1 tháng sau sẽ trả lại hết. Nhưng sau đó lại không trả. Bức xúc với hành vi này của ông Tùng, Phong viết Đơn gửi Hiệu trưởng của ông Tùng. Phát hiện ra điều này, ông Tùng chủ động gặp Phong năn nỉ, kêu Phong rút Đơn sẽ trả hết tiền, đồng thời hứa sẽ trả lại luôn Giấy mượn, vay tiền của ông Tùng, Công, Thanh để Phong an tâm.

*Ông Tùng còn nhắn tin (Phong vẫn còn lưu tin nhắn này) cho Phong cách viết đơn, nội dung viết rút đơn là vì bị tâm thần, hoang tưởng, khó khăn…

* Nên bịa đặt vu khống ông Tùng. Ba ngày sau kể từ ngày gửi Đơn, Tin lời ông Tùng nên Phong đã gửi Đơn cho Hiệu trưởng xin rút Đơn với lý do đúng như ông Tùng nhắn tin dặn Phong. Tuy nhiên, sau khi Phong rút đơn rồi thì ông Tùng vẫn không trả tiền, về Giấy vay, mượn tiền thì ông Tùng cũng không trả, riêng Giấy vay tiền của anh Thanh thì anh Thanh kêu Phong tới và kếu viết vào phía sau Giấy vay tiền nội dung: Trong thời hạn 03 năm, nếu Phong không tống tiền, không thưa kiện gì ông Tùng thì Giấy vay tiền không còn giá trị, Phong không trả tiền gốc và lãi cho anh Thanh. Bức xúc với việc lật lọng của ông Tùng, Phong gửi Đơn lại cho Hiệu trưởng để tố cáo. Lần này Hiệu trưởng mời Phong và ông Tùng vào làm việc. Buổi làm việc không lập biên bản nhưng Hiệu Trưởng và Phong đều chủ động ghi âm, thể hiện ông Tùng có nhận tiền thi đầu vào của Phong, ông Tùng hứa với Hiệu Trưởng không đòi lại tiền Phong mượn, vay của ông Tùng, Thanh, Công. Sau đó, Hiệu Trưởng nói không thể giải quyết vấn đề của hai bên nên hai bên tự thương lượng. Sau đó, ông Tùng tiếp tục năn nỉ Phong cho thêm thời gian để ông ta trả phần tiền còn lại. Ông ta tiếp tục năn nỉ Phong làm một Tờ tường trình trình bày rằng vì muốn gây sức ép để ông ta giúp Phong tiếp tục học tập, lấy Bằng của trường nên mới dựng chuyện, bịa đặt vu khống ông ta. Thật sự Phong kinh nghiệm còn non kém và vì quá tin ông Tùng nên đã làm theo lời ông ta viết Tờ Tường trình gửi cho phòng tổ chức Nhà trường. Tuy nhiên, sau đó ông Tùng lại lật lọng không trả tiền cho Phong. Bức xúc, Phong viết đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu ông Tùng trả tiền gốc và lãi suất trong 5 năm tổng cộng là 550 triệu đồng. Phong lo sợ nếu viết đúng thực tế tiền chạy lo thì bị xử lý đưa hối lộ nên Phong ghi là ông tùng mượn tiền của Phong khi gửi Đơn cho Tòa. Ngoài ra, Phong nghe tin đồn ông Tùng tuyên truyền với giáo viên Nhà trường là Phong bị tâm thần nên vu khống ông Tùng.

Vì vậy, Phong mới nhắn tin cho rất nhiều giáo viên Trường trình bày hoàn cảnh, kể rõ sự việc ông Tùng lừa và nhận tiền, ép Phong đưa tiền như thế nào. Ông Tùng có nói với Phong là tiền ông Tùng lo cho một số Thầy trong Hội đồng thi nên Phong có nhắn tin cho các Thầy này xin lại tiền. Phát hiện ra sự việc này, ông Tùng chủ động gặp Phong năn nỉ xin Phong không kiện nữa. Ông Tùng giới thiệu Phong gặp một người bạn của ông ta tên là Tâm. Ông Tùng và Tâm chủ động cam kết, hứa sẽ trả hết tiền gốc và lãi cho Phong, trừ ra phần tiền trước đó ông Tùng, Công, Thanh đưa thì còn lại trên 400 triệu đồng thì Tâm sẽ đứng ra trả và hứa trả trước Tết 2015. Gần Tết Tâm hẹn gặp Phong, Tâm đưa trước Phong 10 triệu đồng, hứa qua Tết trong Mùng (trước ngày 9 tháng 1 âm lịch) trả hết phần còn lại. Qua Tết Tâm lại nhắn tin (còn lưu tin nhắn) yêu cầu Phong viết Bản Cam kết tự nhận bị thần kinh nên xuyên tạc, vu không ông Tùng thì Tâm mới trả tiền. Sau đó Tâm gặp Phong, Tâm lấy Bản cam kết rồi chỉ đưa Phong 10 triệu đồng, Tâm yêu cầu Phong viết thê 01 bản cam kết nữa, nội dung bản cam kết vẫn là Phong phải tự nhận bị tâm thần, vu không ông Tùng, rồi Tâm và Phong cùng ký vào bản cam kết này là đồng ý Tâm chỉ trả thêm (ghi trong bản cam kết là giúp) cho Phong 150 triệu đồng, chia ra làm 03 lần trả, mỗi tháng trả 50 triệu đồng. Bức xúc vì cách hành xử của ông Tùng nên Phong đã làm lại Đơn gửi Hiệu trưởng Nhà trường trình bày toàn bộ diễn biến sự việc. Phong vừa gửi đơn hôm trước thì hôm sau Tâm nhắn tin năn nỉ Phong rút Đơn (vẫn còn lưu tin nhắn). Tâm hứa với Phong trong 03 ngày trả hết tiền nhưng yêu cầu Phong phải rút toàn bộ Đơn lại thì Tâm mới trả tiền. Vì vậy, Phong đã viết Đơn xin rút Đơn sau 04 ngày gửi Đơn. Tuy nhiên, sau đó Tâm hẹn tới hẹn lui trên 10 lần. Biết là mình bị lừa nên Phong quyết định gửi Đơn trở lại cho Hiệu Trưởng, trong nội dung Đơn lần này Phong trình bày đầy đủ tất cả sự việc, kể cả lý do các lần gửi Đơn và rút Đơn trước đó là do bị ông Tùng và Tâm lừa, *Phong có gửi kèm hình ảnh chụp tin nhắn bị ông Tùng lừa, dụ dỗ viết lý do rút Đơn*. Ngoài ra, Phong còn trình bày thêm một số lần bị ông Tùng và Tài đe dọa, xúc phạm như: – Một lần tại một quá cà phê có mặt ông Tùng, tài xế lái xe của Nhà trường thì ông Tùng dẫn theo một người đe dọa Phong. Người này quát tháo mọi người đều nghe, dọa rằng sẽ xử Phong, đã cho người chụp hình Phong, sẽ cho Phong biến khỏi trái đất. Lúc đó có rất nhiều người, có cả ông Tùng và tài xế xe ông Tùng thấy. – Tâm trực tiếp gọi điện thoại đe dọa cắt cổ Phong. Phong có ghi âm lại. – Một lần tại một quá cà phê. Ông Tùng kêu một người tên Kiên tự ý khám người Phong thu giữ 02 điện thoại của Phong vì sợ Phong ghi âm. Sau đó ông Tùng đe dọa Phong rất nhiều. Sau khi phát hiện Phong gửi Đơn lại thì Tâm và ông Tùng lại năn nỉ rút Đơn, nhưng lần này Phong không rút Đơn thì họ đe dọa rằng Phong sẽ bị bắt tội Cưỡng đoạt tài sản. Họ còn nói thẳng là họ đã cố ý dụ Phong gửi Đơn rồi rút Đơn, rồi lại gửi Đơn là để Phong bị ghép tội đe dọa tống tiền. Tôi không am hiểu pháp luật về tống tiền. Kính xin Luật sư hãy giúp đỡ cho chúng tôi biết việc Phong yêu cầu ông Tùng trả lại tiền cho mình có đúng không? Và Phong có phạm tội tống tiền không? Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào Luật sư! Kính chúc Luật sư và gia đình luôn mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp, tiếp tục tỏa sáng với nghề vinh quang bảo vệ công lý!

Xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Lê Dương

>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoạigọi:  1900.0191

 

 Trả lời: 

Để trả lời tình huống trên có phạm tội tống tiến không, chúng ta cùng đi vào phân tích hành vi để xem hành vi trên có thỏa mãn cấu thành tội phạm không?

 

1. Hành vi tống tiền được quy định như thế nào?

– Hành vi tống tiền được hiểu là những hành vi sử dụng các phương tiện, cách thức khác nhau để uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản hoặc bằng những thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người thực hiện hành vi tống tiền đó.

– Các hành vi tống tiền thường được sử dụng là sử dụng clip nóng, hình ảnh nhạy cảm của người bị đe dọa hoặc những bằng chứng chứng minh người bị đe dọa có tội hoặc khiến cho họ lo sợ vì một vấn để nào đó mà nếu không làm theo việc mà người thực hiện hành vi tống tiền yêu cầu thì có thể gây ảnh hưởng đến người bị đe dọa. Cũng cần phải lưu ý là hành vi tống tiền là hành vi với mục đích chủ yếu là tài sản (tiền bạc, giấy tờ có giá, …) mà chủ yếu là tiền yêu cầu nạn nhân (người bị đe dọa) phải thực hiện miễn cưỡng phải đưa tài sản của mình cho những người phạm tội.

– Hành vi đe dọa tống tiền là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Hành vi này hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

– Ở tội cưỡng đoạt tài sản thì dấu hiệu là hành vi uy hiếp tinh thần của người có tài sản (chủ sở hữu) hoặc người có trách nhiệm về tài sản đó bằng những thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi đe dọa bằng vũ lực hoặc thủ đoạn khác là những hình thức mà đối tượng phạm tội tác động vào nạn nhân mà khiến nạn nhân lo lắng, sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội nếu không các hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác sẽ được thực hiện. Tùy thuộc vào mức độ và tính chất của hành vi cưỡng đoạt tài sản (tiền) đó mà người vi phạm có thể bị xử lý về hành chính thậm chí là truy cứu trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên.

 

2. Cấu thành tội phạm của tội cưỡng đoạt tài sản.

Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có cấu thành tội phạm như sau:

– Mặt khách thể của tội phạm: Tội cưỡng đoạt tài sản cùng lúc xâm hại đến hai khách thể là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Những việc xâm hại đến quan hệ nhân thân không phải mục đích chính của tội phạm mà chỉ là để đe dọa tinh thần làm cho người bị cưỡng đoạt phải giao tài sản cho người phạm tội.

– Mặt khách quan của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1) hoặc từ 14 tuổi trở lên nếu thuộc các khoản 2, 3 và 4 của Điều 170 BLHS 2015, chủ thể của tội này phải có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Về mặt khách quan của tội phạm:

+ Có hành vi đe dọa dùng vũ lực, người phạm tội thực hiện hành vi này nhằm đe dọa người khác bằng việc thực hiện một hành động vũ lực nhất định nào đó như đe dọa đánh, đấm, đập, … Tuy nhiên hành vi này chỉ được dừng lại ở việc đe dọa để khống chế người bị hại đưa tài sản chứ không phải là hành vi thực hiện dùng vũ lực trực tiếp để ép nạn nhân đưa tài sản.

+ Có hành vi dùng thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần người khác, hành vi dùng thủ đoạn khác gây áp lực đến tinh thần của người bị hại làm ảnh hưởng đến nhân phẩm, danh dự hay thậm chí là hành vi vi phạm pháp luật của người bị đe dọa để cưỡng đoạt tài sản một cách bất chính của người phạm tội. Thường thấy nhất của hành vi dùng thủ đoạn khác là hành vi dùng những clip nóng của người phạm tội và người bị đe dọa hoặc hành vi sử dụng bằng chứng có thể chứng minh người đó phạm tội để ép nạn nhân phải đưa tiền cho người phạm tội.

Cũng lưu ý ở cấu thành cơ bản của tội này không yêu cầu hậu quả phải diễn ra tức là đây là cấu thành hình thức chỉ cần người nào đó thực hiện hành vi là đã cấu thành tội phạm. Tuy nhiên mức độ chiếm đoạt tài sản cũng là một trong các căn cứ để định khung hình phạt (nếu có).

– Mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, mục đích và động cơ.

+ Lỗi của tội phạm này là lỗi cố ý. Chủ thể thực hiện hành vi biết được hành vi của mình là trái quy định của pháp luật nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả được xảy ra. Ví dụ hành vi dùng clip nóng thì chủ thể thực hiện quay clip nóng có thể lường trước được hậu quả xảy ra, biết được hành vi của mình là hành vi trái quy định của pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm chiếm đoạt tiền của nạn nhân.

+ Mục đích của tội phạm này là chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

 

3. Có phạm tội tống tiền không?

Như đã trao đổi ở trên thì hành vi tống tiền thực chất là một hành vi, một thủ đoạn khác của tội danh cưỡng đoạt tài sản mà người vi phạm nếu thực hiện hành vi rất có thể bị xử lý theo tội danh này nếu thỏa mãn đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như được nêu ở các mục trên.

– Quay trở lại với câu hỏi của bạn thì tình huống bạn đưa ra xoay quanh câu chuyện việc nhận tiền hối lộ để được thi đậu vào trường. Trước hết phải khẳng định hành vi của tất cả các chủ thể trên (Phong và Tùng) là hành vi vi phạm pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng.

Còn riêng là mặt bản thân Phong đã có hành vi đe dọa ông Tùng là nếu không trả lại tiền thì sẽ tiếp tục gửi đơn cho Hiệu trưởng về hành vi vi phạm của nhân viên trong Nhà trường. Hành vi của phong là hành vi tổng tiền dựa vào câu chuyện hối lộ để đỗ vào trường của mình. Nếu ông Tùng không đưa tiền cho Phong thì Phong sẽ tiếp tục gửi đơn để yêu cầu ông Tùng trả lại tiền cho mình. Nhưng cũng cần phải lưu ý thực chất Phong đã làm đơn ra hiệu trưởng rồi, tức là hành vi này không chỉ dừng ở đe dọa và hành vi cuối cùng của Phong cũng là đã đưa nộp đơn lên Hiệu trưởng. Hành vi của Phong chỉ muốn lấy lại số tiền mà mình đã bỏ ra trong việc hối lộ chứ không có mục đích chiếm đoạt số tiền này của ông Tùng. Việc số tiền của ông Tùng là hành vi do lợi dụng chức vụ mà có được nên không thể coi là tài sản hợp pháp của ông Tùng theo quy định. Do vậy kết luận phong nếu chỉ dựa vào các tình huống trên là tội cưỡng đoạt tài sản (tống tiền) là vẫn thiếu cơ sở pháp lý.

– Ông Tùng có thể vi phạm Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Còn Phong có thể bị xử lý theo Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.