Luật sư tư vấn:

1. Tình trạng mất khả năng, điều khiển hành vi là gì?

Pháp luật Hình sự hiện hành (Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau:”Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng về nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. (Quy định cụ thể tại Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017). Như vậy Bộ luật hình sự hiện hành quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự gồm: Tình trạng không có trách nhiệm hình sự có nguyên nhân từ việc người thực hiện hành vi mắc các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Áp dụng vào thực tiễn thì việc mất khả năng về nhận thức hoặc khả năng làm chủ về hành vi có thể tồn tại dưới hai dạng cụ thể như sau:

-Thứ nhất: Do mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác gây ảnh hưởng đến tâm trạng, suy nghĩ và hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội (như là các chứng rối loạn sức khỏe tâm thần,…). Đặc điểm chung của dạng này là hành vi của người bị mắc các bệnh này được diễn ra một cách rất tự nhiên, có thể là do các yêu tố liên quan đến di truyền hoặc do môi trường. Pháp luật hình sự quy định những trường hợp mắc bệnh này do các nguyên nhân nêu trên là những người mất năng lực hành vi do đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi họ gây ra.

– Thứ hai: Do tác động của yếu tố chủ quan dẫn đến hình thành bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Nguyên nhân hình thành nên tình trạng này do có sử dụng các chất kích thích, chất cấm (như ma túy, rượu, bia,….).

 

2. Trách nhiệm hình sự với người mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi?

Điều 13 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về các trường hợp phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh, cụ thể như sau:

“Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy nếu người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng sử dụng rượu bia hoặc các chất kích thích mạnh khác dẫn đến hậu quả khiến cho người đó mất khả năng về nhận thức hoặc không khả năng điều khiển hành vi của mình thì vẫn chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà mình gây ra.

 

3. Uống rượu say đó đánh bạn thì có bị đi tù không?

Câu hỏi: Thưa Luật sư của LVN Group năm nay em 18 tuổi, vào ngày 12/4/2020 em có đi liên hoan cùng bạn, trong buổi liên hoan em với một người bạn có xảy ra một số các xung đột dẫn đến đánh nhau. Do lúc đấy em có uống rượu nên không làm chủ được bản thân nên đã quá tay đẩy bạn kia ngã có đập đầu vào vật cứng (có thể là đá). Sau đấy những người xung quanh đưa bạn kia đi bệnh viện và gọi công an đến để ghi nhận lại hiện trường. Sau khi cơ quan công an tiếp nhận thông tin của vụ việc và đưa bạn kia đi giám định tỷ kệ tổn thương cơ thể thì kết quả giám định là 14%.
Vậy cho em hỏi khi thực hiện hành vi trên em hoàn toàn không nhận thức được hành vi mà bản thân đang thực hiện, không làm chủ được hành vi của mình thì em có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?.

Trả lời

Điều Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cụ thể như sau:

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Căn cứ vào những tình tiết mà bạn có nêu thì cơ quan công an đã giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của bạn kia là 14% nên trong trường hợp này bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017, cụ thể mức hình phạt có thể bị phạt cải tạo không gian giữ 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Mặt khác Điều 13 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng quy định về những trường hợp phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, cụ thể như sau:

“Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy pháp luật hình sự hiện hành (cụ thể là Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định người phạm tội trong tình trạng sử dụng rượu bia dẫn đến không làm chủ, mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã gây ra.

 

4. Uống rượu xong giết người thì có bị xử phạt thế nào?

Câu hỏi: Thưa Luật sư, Luật sư cho em hỏi, vào ngày 23/4/2020 chú em đi làm buổi tối về, trong lúc đi thì do trời tối mà đoạn đường về đến nhà không có đèn đường nên chú em có va quyệt vào ông A đang say rượu và nằm ngoài lề đường. Lúc đấy ông A đang trong tình trạng say rượu nên đã mắng chửi chú em và cầm con dao có sẵn ở trong tay đâm vào chú em. Do mất máu nhiều và không được đi cấp cứu kịp thời nên chú em đã mất trên đường đi cấp cứu. Từ lúc xảy ra ông A không hề sang xin lỗi gia đình em, thậm chí còn có thái độ thách thức nói rằng bên gia đình em cứ đưa ra công an, lúc đấy ông ấy say rượu không biết gì nên ông ấy không sợ.
Vậy Luật sư của LVN Group cho em hỏi, bị suy rượu xong giết người mà không phải chịu tội ạ?. Và gia đình em có quyền yêu cầu ông A phải bồi thường cho gia đình em không ạ?. Em cảm ơn Luật sư ạ!

Trả lời

Theo như bạn trình bày thì lúc thực hiện hành vi đâm chú bạn thì ông A đang trong tình trạng say rượu và không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Theo pháp luật hình sự tình trạng của ông A được coi là lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:

“Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy căn cứ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 thì đối với những trường hợp gây án trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng bia rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.

Vậy trong trường hợp ông A có thái độ thách thức và không hợp tác gia đình bạn hoàn toàn có thể tố cáo cơ quan công an và ông A vẫn phải chịu trách nhiệm đối với hành vi mà mình đã thực hiện.

Ngoài ra căn cứ theo 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể như sau:

“Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.

Ngoài ra Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định về cách xác định mức bồi thường thiệt hại, cụ thể như sau:

“Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

 

5. Sử dụng ma túy xong gây án thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Điều 13 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do dùng chất kích thích mạnh (như ma túy,…) thì vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.0191 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.