Theo Luật Quản lý thuế năm 2019 số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 06 năm 2019; Nghị định 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế. Quy định cụ thể như sau:

Theo khoản 2 Điều 117 Luật Quản lý thuế, thành viên đoàn thanh tra thuế có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng đoàn thanh tra thuế;

b) Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó;

c) Kiến nghị trưởng đoàn thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra theo quy định tại khoản 1 Điều này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao;

d) Kiến nghị xử lý những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế;

đ) Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với trưởng đoàn thanh tra thuế, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trưởng đoàn thanh tra về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo.

 

Luật LVN Group phân tích chi tiết quy định pháp lý về vấn đề trên như sau:

Thanh tra thuế là hoạt động thanh tra chuyên ngành được thực hiện trực tiếp bởi đoàn thanh tra dựa trên quyết định thanh tra được thủ trưởng cơ quan thuế có thẩm quyền ban hành. Đoàn thanh tra được tổ chức bao gồm Trưởng đoàn thanh tra và thành viên đoàn thanh tra, mỗi vị trí đều có các nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. So với nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thì thành viên sẽ có nhiệm vụ, quyền hạn ít hơn.

 

1. Khái quát về thành viên đoàn thanh tra thuế:

Khái niệm về thanh tra thuế được quy định thống nhất là: Thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thu nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế- xã hội.

Xuất phát từ nguyên tắc được quy định tại Luật Thanh tra: ” Hoạt động thanh tra do Đoàn thanh tra, Thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện.” Do vậy, Đoàn thanh tra có thể được coi là chỉ thể không thể thiếu trong phần lớn các hoạt động thanh tra.

Đoàn thanh tra thuế bao gồm trưởng đoàn thanh tra và thành viên đoàn thanh tra thuế được ghi nhận trong quyết định thanh tra thuế do thủ trưởng cơ quan thuế có thẩm quyền ban hành. Người trong đoàn thanh tra thường là người có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng các yêu cầu nhất định và không có hành vi vi phạm pháp luật; không có liên quan đến đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

Thành viên đoàn thanh tra có vai trò quan trọng, là những người trực tiếp thực hiện thanh tra và tác động trực tiếp vào đối tượng thanh tra. Thành viên đoàn thanh tra chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Trưởng đoàn thanh tra và người ra quyết định thanh tra về việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao.

 

2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra thuế:

Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra được quy định tại Khoản 2 Điều 117 Luật quản lý thuế, cụ thể:

– Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng đoàn thanh tra thuế;

Trưởng đoàn thanh tra là người đứng đầu đoàn thanh tra, được người ra quyết định thanh tra chỉ định. Trưởng đoàn thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn được ghi nhận tại Khoản 1, điều 117, trong đó trưởng đoàn thanh tra có quyền chỉ đạo, tổ chức thanh tra theo quyết định thanh tra, theo đó việc chỉ đọa, hướng dẫn, phân công được thực hiện bởi thành viên đoàn thanh tra, thành viên có nhiệm vụ thực hiện theo sự phân công đó để đảm bảo hoạt động thanh tra được diễn ra đúng đắn, hiệu quả, tránh tình trạng tùy ý thực hiện, thiếu thống nhất và logic. Sự phân công phải dựa trên quyết định thanh tra và thành viên đoàn thanh tra có thể đề xuất ý kiến nếu thấy cần thiết.

– Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải tình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó;

Đối tượng thanh tra là người nộp thuế được xác định trong quyết định thanh tra thuế, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác là những cơ quan hữu quan, có mối quan hệ với đối tượng thanh tra và có khả năng có một số thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra.

Đây là quyền cơ bản mà người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra hay thành viên đoàn thanh tra đều có, đây là quyền quan trọng để thực hiện hoạt động thanh tra nhanh chóng, hiệu quả, thể hiện tính chủ động trong việc thực hiện hoạt động thanh tra của đối tượng thanh tra. Nếu như yêu cầu là quyền thì chấp nhận yêu cầu là nghĩa vụ của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức cá nhân có thông tin, tài liệu. Điều quan trọng cần chú ý là các thông tin, tài liệu chỉ được liên quan đến nội dung thanh tra chứ không phải bất kỳ thông tin, tài liệu nào.

– Kiến nghị trưởng đoàn thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra theo quy định tại Khoản 1 Điều này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao;

Việc kiến nghị ở đây là hợp lý để tập trung vào trưởng đoàn thanh tra, các biện pháp thường được kiến nghị như: Kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng thanh tra; quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật; Tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế. Cần chú ý, việc kiến nghị các biện pháp chỉ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn  của trưởng đoàn thanh tra được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 117 Luật Quản lý thuế.

– Kiến nghị xử lý những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế;

Những vấn đề liên quan đến nộ dung thanh tra thuế nếu cần xử lý thì thành viên đoàn thanh tra không được tự ý thực hiện mà phải kiến nghị với người ra quyết định thanh tra thuế hoặc trưởng đoàn thanh tra, đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ để đảm bảo được sự thống nhất trong việc ra quyết định xử lý. Việc xử lý thường do xuất hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra của đối tượng nộp thuế.

– Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với trưởng đoàn thanh tra thuế, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trưởng đoàn thanh tra về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo.

Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của thành viên đoàn thanh tra, là kết quả của quá trình thanh tra và bắt buộc phải có trong mọi trường hợp thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra là căn cứ để xây dựng kết luận thanh tra, do vậy báo cáo kết quả phải chính xác, trung thực, khách quan, đảm bảo các nội dung đúng đắn và đầy đủ. báo cáo kết quả cũng chính là cơ sở để trưởng đoàn thanh tra gửi tới người ra quyết định thanh tra, báo cáo này cũng gắn trách nhiệm với trưởng đoàn thanh tra.

Trước đây, nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra thuế được quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật Thanh tra thuế năm 2006, cụ thế:

“2. Thành viên đoàn thanh tra thuế có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trường đoàn thanh tra thuế;

b) Kiến nghị xử lý những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế;

c) Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với trưởng đoàn thanh tra thuế.”

Như vậy so với quy định trước đây, thì Luật Quản lý thuế năm 2019 đã mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra, theo đó bổ sung thêm 2 nhiệm vụ, quyền hạn là: Yêu cầu đối tượng thanh tra cũng cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó; Kiến nghị trưởng đoàn thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra theo quy định tạo khoản 1 Điều này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao. Sự thay đổi này cho thấy cần nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn của nhà làm luật, giúp cho thành viên đoàn thanh tra chủ động hơn trong việc thực hiện chức năng của mình.

Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra được ghi nhận tại Luật Quản lý thuế năm 2019 cũng là sự tương thích về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra được ghi nhận tại Điều 47 Luật Thanh tra, cụ thể Luật Thanh tra cũng quy định rằng:

“Điều 47. Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Đoàn thanh tra hành chính

1. Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng đoàn thanh tra.

2. Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó.

3. Kiến nghị Trưởng đoàn thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra quy định tại Điều 46 của Luật này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.

4. Kiến nghị việc xử lý về vấn đề khác liên quan đến nội dung thanh tra.

5. Báo cáo kết qua thực hiện nhiệm vụ được giao với Trưởng đoàn thanh tra, chịu trách nhiệm trước Trưởng đoàn thanh tra và trước pháp luật về chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo.”

Như vậy, có thể thấy rằng, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra được cho là đầy đủ, phù hợp, đáp ứng yêu cầu về quá trình thực hiện chức năng, vai trò của họ. Điều quan trọng là trong thực tế, thành viên đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó ra sao, có thực sự hiệu quả hay không.

Luật LVN Group xin cung cấp thêm về quy định, nhiệm vụ của người ra quyết định thanh tra thuế:

a) Khái quát về người ra quyết định thanh tra thuế:

Quyết định thanh tra thuế là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành làm phát sinh hoạt động thanh tra thuế và chứng minh hoạt động thanh tra thuế là hợp pháp. Quyết định thanh tra thuế được quy định tại Điều 114 Luật Quản lý thuế, tại điều luật này xác định rằng:

Người ra quyết định thanh tra thuế là “Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp thẩm quyền” – tức là “Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế; Cục trưởng Cục thuế; chi cục trưởng Chi cục Thuế”.

Với tư cách là người đứng đầu cơ quan thuế, cũng như là người ra quyết định thanh tra thuế có khả năng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người nộp thuế, chủ thể này buộc phải được ghi nhận nhiệm vụ, quyền hạn một cách cụ thể để rằng buộc trách nhiệm và tránh tình trạng làm quyền, đảm bảo hoạt động thanh tra diên ra hiệu quả, đúng đắn. Quyết định được ban hành, người ra quyết định thanh tra thuế phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.

b) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra thuế:

Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra thuế được quy định tại Điều 116 Luật Quản lý thuế, trong đó bao gồm 11 nhiệm vụ, quyền hạn sau:

– Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đoàn thanh tra thuế thực hiện đúng nội dung, quyết định thanh tra thuế;

Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo rằng đoàn thanh tra thực hiện nghiêm túc, đúng đắn, hiệu quả theo đúng nội dung được ghi nhận trong quyết định thanh tra thuế. Chỉ đạo ở đây có nghĩa là định hướng, phân công, hướng dẫn đoàn thanh tra thực hiện; kiểm tra có nghĩa là xem xét việc thực hiện; và giám sát là chủ động theo dõi, đánh giá hoạt động của đoàn thanh tra. Nếu nhiệm vụ, quyền hạn này được đảm bảo công tác thực hiện của đoàn thanh tra sẽ mang lại hiệu quả tối ưu nhất.

– Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra thuế cung cấp thông tin, tài liệu đó;

Khi nhắc đến đối tượng thanh tra thuế thì người a liên tưởng ngày người nộp thuế, họ là người thực hiện các hoạt động liên quan đến thuế. Việc yêu cầu đối tường thanh tra thuế cung cấp các thông tin tài liệu, báo cáo, giải tình liên quan đến nội dung thanh tra thuế là cần thiết để đảm bảo cho hoạt động thanh tra thuế được diễn ra thuận tiện và nhanh chóng hơn. Đặc biệt, đối với nhiệm vụ quyền hạn này, người ra quyết định thanh tra thuế với tư cách là người có thẩm quyền, sử dụng quyền lực để yêu cầu, do đó đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm cung cấp mà không được từ chối. Cần chú ý, đối tượng thanh tra được xác định rõ trong quyết định thanh tra thuế được ban hành.

– Trưng cầu giám định về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế;

Trưng cầu giám định là nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định đối với một cơ quan giám định độc lập về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra thuế, mà thường là các vấn đề tài sản. Quyền hạn này có thể không phổ biến, bởi tùy từng trường hợp thì việc trưng cầu giám định có thực sự cần thiết thì mới được sử dụng.

– Tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

Tạm đình chỉ là việc tạm ngừng việc làm trong một thời gian nhất định và chỉ có thể tiếp tục khi có quyết định phục hồi hoặc hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, Đình chỉ là việc quyết định chấm dứt việc làm. Việc trao quyền tạm đình chỉ, kiến nghị đình chỉ cho người ra quyết định thanh tra cũng hoàn toàn hợp lý, khi họ là người theo dõi đối với hoạt động thanh tra và nếu xét thấy việc làm gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của chủ thể khác thì điều quan trọng là cần phải hạn chế điều đó nhanh nhất và hiệu quả nhất.

– Quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý kết quả thanh tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý thanh tra thuế;

Kết quả thanh tra là báo cáo sơ bộ về quá trình và những điều có được từ hoạt động thanh tra. Xử lý kết quả thanh tra là việc đảm bảo cho quá trình ra kết luận thanh tra và quyết định xử lý thanh tra thuế. Đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý thanh tra thuế yêu cầu các đơn vị có liên quan, cá nhân nhanh chóng thực hiện quyết định đúng đắn, chính xác.

– Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của trưởng đoàn thanh tra thuế, các thành viên khác của đoàn thanh tra thuế;

Giải quyết khiếu nại, tố cáo là nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo lợi ích của đối tượng thanh tra, nhà nước, cá nhân, tổ chức liên quan. Giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là nhiệm vụ phổ biến của hầu hết các cá nhân có thẩm quyền, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan nhà nước. Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành.

– Đình chỉ, thay đổi trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh ta khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hoặc khi phát hiện trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra có liên quan đến đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thực hiện nhiệm vụ thanh tra;

Đoàn thanh tra là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động thanh tra, là chủ thể đưa ra kết luận thanh tra làm căn cứ để kết luận thanh tra và có quyết định xử lý hay không, do vậy, trưởng đoàn, thành viên đoàn thanh tra phải đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ vì vậy khi không còn đáp ứng thì họ thường bị đình chỉ và bị thay đổi, Đối với hành vi vi phạm pháp luật hay có liên quan đến đối tượng thanh tra, thì đây là các trường hợp đặc thù mà việc thanh tra sẽ không thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, do vậy việc bị đình chỉ và thay đổi là điều dễ hiểu. Đây là quyền hạn quan trọng của người ra quyết định thanh tra, thể hiện sự chỉnh chu, tỷ mỉ trong việc lựa chọn chính xác các cá nhân trong đoàn thanh tra.

– Kết luận về nội dung thanh tra thuế;

Đây là nhiệm vụ quan trọng, được thực hiện dựa trên các tài liệu được cung cấp, ghi nhận lại toàn bộ quá trình và kết quả thanh tra thuế, đảm bảo đủ cơ sở, căn cứ pháp lý và hợp pháp của hoạt động thanh tra.

– Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết;

Đây là nhiệm vụ thể hiện sự phối hợp giữa cơ quan trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, đảm bảo được các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm. Việc thông báo cho Viện kiểm sát cũng rất quan trọng để đảm bảo rằng cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp được biết và nắm bắt thực tế.

– Áp dụng các biện pháp quy định tại các điều 121, 122, và  123 của Luật này;

Đó là các biện pháp: Thu thập thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế; Tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành trốn thuế; khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế.

– Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tẩu tán tài sản, không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của thủ trưởng cơ quan Thanh tra nhà nước, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.

Phong tỏa tài khoản là việc tạm ngừng hoạt động chiều ra tài khoản ngân hàng trong một thời gian nhất định để đảm bảo cho tài khoản không bị tẩu tán. Việc yêu cầu tổ chức tín dụng phong tỏa tài khoản là quyền, còn tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện việc phong tỏa, điều này cho thấy được rằng, để hoạt động thanh tra thuế được hiệu quả thì việc cần giúp đỡ của các cơ quan, cá nhân khác là điều hoàn toàn cần thiết.

Trên đây là toàn bộ bài viết mà Luật LVN Group muốn cung cấp đến bạn đọc tham khảo. Nếu có thắc mắc vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến hotline 1900.0191 để được chuyên viên pháp luật tư vấn trực tiếp. Xin chân thành cảm ơn!