– Khẳng định sai. Bởi vì:

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.

Mục đích phạm tội là kết quả người phạm tội mong muốn đạt được bằng cách thực hiện tội phạm.

Trong Luật hình sự có quy định một số trường hợp tội phạm mà động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.

Ví dụ: Mục đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm an ninh quốc gia; động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356 Bộ luật hình sự năm 2015)…

Đối với những tội phạm mà động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, thì những người trong đồng phạm phải có cùng động cơ, mục đích hoặc thành viên trong đồng phạm phải biết rõ và tiếp nhận mục đích đó của những người đồng phạm khác.

Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, khi đó, những người tham gia thực hiện tội phạm có thể có động cơ, mục đích trùng nhau hoặc khác nhau.

Mặc dù dấu hiệu động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tất cả các vụ án đồng phạm; nhưng việc nghiên cứu dấu hiệu này có ý nghĩa rất quan trọng – đặc biệt là trong thực tiễn công tác bởi vì nó không chỉ giúp xác định có đồng phạm hay không (trong các trường hợp động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc), mà nó còn giúp xác định tội danh cũng như đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm.

Bài viết phân tích, làm sáng tỏ quy định pháp lý về vấn đề trên như sau:

Những người tham gia trong vụ án đồng phạm bắt buộc phải có cùng động cơ, mục đích phạm tội. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ gửi đến khách hàng chi tiết về vấn đề này, vấn đề này đúng hay sai?

 

1. Những người tham gia trong vụ án đồng phạm bắt buộc phải có cùng động cơ, mục đích phạm tội

Đây là khẳng định sai. Vì thứ nhất, động cơ phạm tội là động cơ bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội

Mục đích phạm tội là kết quả người phạm tội mong muốn đạt được bằng cách thực hiện tội phạm. Trong luật hình sự quy định một số trường hợp tội phạm mà động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. 

Ví dụ như: Mục đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm an ninh quốc gia; động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội vụ lợi chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo điều 356 Bộ luật hình sự 2015 quy định. 

Đối với những tội phạm mà động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì những người trong đồng phạm phải có cùng động cơ, mục đích hoặc thành viên trong đồng phạm phải biết rõ và đồng thời tiếp nhận mục đích đó của những người đồng phạm khác.

Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, khi đó những người tham gia thực hiện tội phạm có thể có động cơ, mục đích trùng nhau hoặc khác nhau. Mặc dù dấu hiệu động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tất cả các vụ án đồng phạm nhưng việc nghiên cứu dấu hiệu này có ý nghĩa rất quan trọng- đặc biệt là trong thực tiễn công tác bởi vì nó không chỉ giúp xác định có đồng phạm hay không (trong các trường hợp động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc) mà nó còn giúp xác định tội danh cũng như đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm.

 

2. Trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm

Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành theo khoản 4 điều 17 Bộ luật hình sư 2015. Theo quy định trên thể hiên nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm. Trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm mặc dù họ phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm nhưng do trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người khi phạm tội. Do đó, mỗi người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác.

Về hành vi vượt quá của người đồng phạm ta có thể hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thoả mãn dấu hiệu định khung phạt tăng nặng trong cùng một tội phạm.

Ví dụ: Chị A và anh B đã bàn bạc với nhau và thống nhất sẽ trộm cắp tài sản của nhà anh C. Trong khi chị A dụ dỗ những người xung quanh nhà anh C sang chỗ khác thì anh B chồng chị A phải bí mật vào nhà anh C. Trong khi đang lấy trộm tài sản, anh B lại nhìn thấy con anh C (7 tuổi) trông nhà và đang ngủ ngon lành, anh B thấy vậy nên đã giở trò đồi bại, hãm hiếp con anh C sau đó lấy khối tài sản trong nhà trộm được chạy ra ngoài nhưng bị bắt lại. Với hành vi hiếp dâm con anh C này của anh B nằm ngoài kế hoạch của chị A và B. Hành vi hiếp dâm của B sẽ cấu thành tội độc lập là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại điều 142 Bộ luật hình sư 2015 quy định.

Đồng phạm gồm các dấu hiệu sau:

– Sự tham gia của hai người trở lên;

-Hai người đó cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

Thứ nhất, đồng phải đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Cả hai người đều phải có điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hiện.

Thứ hai, về dấu hiệu cố ý cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi như sau:

– Hành vi thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người thực hành;

– Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người tổ chức;

– Hành vi xúi giục người khác thực hiện phạm tội. Người có hành vi này được gọi là người xúi giục;

– Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.

Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể coi là cùng thực hiện và do vậy cũng không phải là người đồng phạm.

Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người đồng phạm tham gia vào việc thực hiện tội phạm đưa lại. Giữa hành vi của mỗi người và hậu quả thiệt hại của tội pham đều có quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi của người thực hành sẽ là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả còn hành vi của những người khác như người tổ chức, xúi giục hay giúp sức sẽ thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.

Bài viết trên Luật LVN Group đã gửi tới khách hàng chi tiết về khẳng định những người tham gia vào vụ án đồng phạm bắt buộc phải có cùng mục đích, động cơ phạm tội. Trong bài viết nếu có nội dung nào khách hàng còn chưa rõ thì quý khách hàng có thể liên hệ qua số tổng đài 1900.0191 để được tư vấn cụ thể. Với đội ngũ Luật sư của LVN Group tư vấn giàu kinh nghiệm, Luật LVN Group cam kết sẽ gửi tới quý khách hàng dịch vụ tư vấn luật pháp tốt nhất. Xin trân trọng cảm ơn!