1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp

Đây được coi là loại thoả thuận hạn chế cạnh tranh kinh điển và phổ biến nhất. Trong nền kinh tế thị trường, dưới sức ép của cạnh tranh, các doanh nghiệp phải tìm cách cắt giảm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Do vậy, hành vi thông đồng ấn định giá bán giữa các doanh nghiệp nhàm tránh sức ép cạnh tranh thường bị cấm theo pháp luật cạnh tranh của tất cả các nước theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên bị cẩm (per se rule).

Có thể hiểu, bản chất của loại thoả thuận ấn định giá là việc thống nhất cùng hành động ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và được thực hiện dưới một trong các hình thức như:

– Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng;

– Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể;

– Áp dụng công thức tính giá chung;

– Duy trì tỉ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan;

– Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất;

– Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng;

– Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận;

– Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Mặc dù hậu quả chung của hành vi ấn định giá là hạn chế hoặc loại bỏ sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp nhưng căn cứ vào cách thức tác động đến giá hàng hoá hoặc dịch vụ, có thể chia các thỏa thuận về giá thành 2 nhóm: Các thoả thuận trực tiếp ấn định giá và các thoả thuận gián tiếp tác động đến giá hàng hoá, dịch vụ. Các thoả thuận trực tiếp ấn định giá mua, bán (gồm áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể và áp dụng công thức tính giá chung) dẫn đến kết quả là một mức giá mua, bán như nhau giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận. Các loại thoả thuận còn lại có thể được gọi là thoả thuận gián tiếp ấn định giá mua, bán và khác với nhóm thoả thuận trên ở chỗ chúng không tạo ra mức giá mua, bán như nhau giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận nhưng lại có tác dụng ngăn cản, kìm hãm các doanh nghiệp này định giá sản phẩm của mình một cách độc lập theo cơ chế thị trường.

 

2. Thoả thuận phân chia khách hàng, thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ

Bên cạnh việc thông đồng ấn định giá, các doanh nghiệp cũng có thể thoả thuận phân chia thị trường (theo lãnh thổ, loại hình hay quy mô của khách hàng, hay theo bất kì tiêu chí nào khác) nhằm giảm sức ép cạnh tranh và tạo ra sự độc quyền trong khu vực thị trường đã được phân chia. Đối với loại thoả thuận này cần lưu ý rằng, pháp luật các nước thường phân biệt những thoả thuận có mục đích phân chia thị trường với những thoả thuận không có mục đích nhưng có hậu quả

Có thể hiểu, thoả thuận phân chia thị trường bao gồm:

– Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ (thị trường bán) và

– Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ (thị trường mua), trong đó:

– Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng hoá, dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hoá, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham gia thoả thuận;

– Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất mỗi bên tham gia thoả thuận chỉ được mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.

 

3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ

Đây là loại thoả thuận trong đó các bên thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó; hoặc thống nhất ấn định lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.

Việc kiểm soát hay hạn chế này thường làm bóp méo nguồn cung trên thị trường, tạo ra sự khan hiếm giả tạo và đẩy giá hàng hoá lên cao, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Cũng giống như thoả thuận ẩn định giá, về bản chất, loại thoả thuận này có tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể và thường bị cấm triệt để theo pháp luật của các nước.

Khi xử lí các thoả thuận này cũng cần lưu ý rằng có nhiều lí do dẫn đến việc các doanh nghiệp cắt giảm hoặc ấn định số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ được sản xuất, mua bán hoặc cung ứng (như suy giảm nhu cầu của thị trường đối với hàng hoá hay dịch vụ đó; khủng hoảng kinh tế; hàng hoá tồn kho…) và không phải lúc nào việc cắt giảm số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cũng là kết quả của thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Chỉ khi nào việc cắt giảm sản lượng là kết quả của sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp nhằm làm giảm sức ép cạnh tranh thì Nhà nước mới cần can thiệp để bảo vệ cạnh tranh trên thị trường.

 

4. Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ

Đấu thầu là việc lựa chọn nhà cung cấp hàng hoá (dịch vụ) thông qua cạnh tranh về giá cả, chất lượng, tính năng kĩ thuật… để người mời thầu lựa chọn được nhà cung cấp có chất lượng tốt nhất và mức giá hợp lí nhất. Đặc điểm cơ bản của quá trình đấu thầu là các nhà thầu phải chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu độc lập với nhau. Hành vi thông đồng hay họp tác giữa các nhà thầu trong cuộc đấu thầu để một hoặc một số doanh nghiệp trúng thầu, về bản chất, luôn bị coi là làm hạn chế cạnh tranh đáng kể và khiến mục đích của cuộc đấu thầu không đạt được.

 

5. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh

Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường có thể hiểu là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) hoặc cùng hành động dưới các hình thức như yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận; mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận không thể tham gia thị trường liên quan…

Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh có thể hiểu là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) hoặc cùng hành động dưới các hình thức như: yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp này; mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mửc giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh… Khác với trường hợp trên (đối tượng bị tác động là các doanh nghiệp chưa gia nhập thị trường), đối tượng bị tác động trong trường hợp này là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường liên quan.

Như vậy, loại thoả thuận này được áp dụng với các doanh nghiệp đang muốn gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh không phải là. các bên của thoả thuận bằng cách tẩy chay hoặc phong toả mạng lưới phân phối, tiêu thụ hoặc nguồn cung cấp hàng hoá (dịch vụ) của mình hoặc thống nhất tăng giá mua hoặc giảm giá bán hàng hoá (dịch vụ) và chấp nhận giảm lợi nhuận (thậm chí không có lợi nhuận) nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc mở rộng thị phần.

 

6. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thoả thuận

Đây là loại thoả thuận trong đó các bên thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận (tẩy chay) và cùng hành động dưới các hình thức như: yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận; hoặc yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của doanh nghiệp không tham gia thoả thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp này; hoặc mua, bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thoả thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.

Như vậy, khi so sánh với loại thoả thuận được quy định tại khoản 5 Điều 11, loại thoả thuận này có đặc điểm là đối tượng bị tác động là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường liên quan và mục đích (hoặc hậu quả) của loại thoả thuận này là loại bỏ (buộc đối tượng bị tác động phải rút lui khỏi thị trường liên quan). Ngoài ra, có thể thấy rằng nếu như mục đích (hay hậu quả) của loại thoả thuận được quy định tại khoản 5 Điều 11 Luật cạnh tranh là duy trì cấu trúc cạnh tranh hiện có trên thị trường thì loại thoả thuận được quy định tại khoản 6 Điều 11 là thay đổi cẩu trúc cạnh tranh và làm tăng tính tập trung trên thị trường.

 

7. Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư

Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ có thể hiểu là việc thống nhất mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu huỷ hoặc không sử dụng.

Thoả thuận hạn chế đầu tư có thể hiểu là việc thống nhất không đưa thêm vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng hàng hoá, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác.

Trong thị trường tự do, lợi ích của người tiêu dùng không chỉ có được từ cạnh tranh về giá mà còn có được từ cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, tính năng của sản phẩm… Sự cạnh tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư và phát triển công nghệ và kĩ thuật. Do vậy, những thoả thuận hạn chế đầu tư, hạn chế phát triển công nghệ và kĩ thuật sẽ kìm hãm cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và gây thiệt hại tới lợi ích của người tiêu dùng.

 

8. Thoả thuận áp đặt hoặc ẩn định

Nhằm giảm sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể cùng nhau thoả thuận trước các điều kiện hay điều khoản tiêu chuẩn sẽ được áp dụng khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ; các hiệp hội ngành nghề cũng có thể áp đặt cho các thành viên của mình nghĩa vụ phải sử dụng các điều khoản mua bán chung (tiêu chuẩn) do hiệp hội xác định trước. Những điều khoản tiêu chuẩn này thường được coi là có tác dụng hạn chế cạnh tranh đáng kể trừ khi các bên liên quan vẫn có quyền tự do lựa chọn việc có áp dụng những tiêu chuẩn này hay không trong từng hợp đồng cụ thể.

Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện kí kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ có thể hiểu là việc thống nhất đặt một hoặc một số điều kiện tiên quyết sau đây trước khi kí kết họp đồng:

– Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lí theo quy định của pháp luật về đại lí;

– Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hoá, trừ những hàng hoá thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật;

– Hạn chế về khách hàng mua hàng hoá để bán lại, trừ những hàng hoá thuộc trường hợp trên;

– Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.

Thoả thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng có thể hiểu là việc thống nhất ràng buộc doanh nghiệp khác khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ với bất kì doanh nghiệp nào tham gia thoả thuận phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng (các hợp đồng này thường được gọi là các hợp đồng mua bán kèm nhằm bóc lột khách hàng).

Cần lưu ý rằng các thoả thuận này chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh khi khách hàng là các “doanh nghiệp khác”, như vậy, việc các doanh nghiệp đặt ra các điều kiện kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ với các tổ chức, cá nhân không có chức năng kinh doanh (không phải doanh nghiệp theo quy định của Luật cạnh tranh) sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này. Ngoài ra, các điều kiện đặt ra phải là điều kiện “tiên quyết” để có thể kí kểt hợp đồng, nghĩa là khách hàng không có sự lựa chọn khác nếu muốn có được hợp đồng với các doanh nghiệp tham gia thoả thuận (điều này thường chỉ có thể thực hiện được khi các doanh nghiệp tham gia thoả thuận đang nắm giữ sức mạnh thị trường trên thị trường liên quan).

 

9. Thoả thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận

Về bản chất, đây chính là một hình thức của thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh được tách ra thành một loại thỏa thuận riêng được quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2018. Mục đích của loại thỏa thuận này chính là để ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.

 

10. Thoả thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm

Về bản chất, đây chính là một hình thức của thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh được tách ra thành một loại thỏa thuận riêng được quy định tại khoản 10 Điều 11 Luật cạnh tranh. Mục đích của loại thỏa thuận này chính là để ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, thỏa thuận này khác với loại thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh ở chỗ, nếu như thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh là thỏa thuận “không giao dịch” thì thỏa thuận quy định tại khoản 9 Điều 11 Luật cạnh tranh là thỏa thuận “hạn chế” thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bển không tham gia thỏa thuận.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật cạnh tranh, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại. Trân trọng cảm ơn!