1. Khái niệm hợp đồng bảo đảm là gì ?

Hợp đồng bảo đảm bao gồm hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ký cược, hợp đồng ký quỹ, hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu, hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng tín chấp.

Hợp đồng bảo đảm có thể là sự thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc thỏa thuận giữa bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và người có nghĩa vụ được bảo đảm.

Hợp đồng bảo đảm có thể được thể hiện bằng hợp đồng riêng hoặc là điều khoản về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hình thức giao dịch dân sự khác phù hợp với quy định của pháp luật.

 

2. Quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm

Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc theo yêu cầu thì có hiệu lực từ thời điểm được công chứng, chứng thực.

Hợp đồng bảo đảm không thuộc mục 1 (nêu trên) thìcó hiệu lực từ thời điểm do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được giao kết.

Trường hợp tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.

Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.

Quy định về hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba

Biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp biện pháp bảo đảm phải đăng ký theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc được đăng ký theo thỏa thuận hoặc được đăng ký theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm thì thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật liên quan là thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Trường hợp không thuộc mục 2 (nêu trên) thì hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm cố tài sản, đặt cọc, ký cược phát sinh từ thời điểm bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm.

Nắm giữ tài sản bảo đảm quy định tại khoản này là việc bên nhận bảo đảm trực tiếp quản lý, kiểm soát, chi phối tài sản bảo đảm hoặc là việc người khác quản lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật nhưng bên nhận bảo đảm vẫn kiểm soát, chi phối được tài sản này.

Trường hợp tài sản bảo đảm thuộc biện pháp bảo đảm quy định tại mục 3 (nêu trên) được giao cho người khác quản lý thì hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba phát sinh từ thời điểm:

– Bên nhận cầm cố, bên nhận đặt cọc hoặc bên nhận ký cược nắm giữ tài sản bảo đảm;

– Người quản lý tài sản nhận trực tiếp tài sản bảo đảm từ bên cầm cố, bên đặt cọc hoặc bên ký cược;

– Hợp đồng bảo đảm có hiệu lực trong trường hợp người khác đang quản lý trực tiếp tài sản mà tài sản này được dùng để cầm cố, để đặt cọc hoặc để ký cược.

Hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ với người thứ ba phát sinh từ thời điểm tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi ký quỹ.

 

3. Thời hiệu khởi kiện là gì ?

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khỏi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thức thì mất quyền khởi kiện. Chẳng hạn, đối với hợp đồng cho vay, nếu hết thời hiệu khỗi kiện thì người cho vay sẽ mất quyền khỏi kiện đòi nợ tại Toà án và Trọng tài. Tức là, bên cho vay coi như mất trắng cả tiền gốc và lãi, còn bên đi vay thì được xoá nợ một cách hợp pháp.

Từ ngày 31/12/2016 trở về trước, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo đảm là hai năm, kể từ ngày cá nhân, pháp nhân “biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”; nếu xảy ra tranh chấp (ngày khỏi kiện). Từ ngày 01/01/2017 trỏ đi thì thời hiệu khỏi kiện là ba năm, “kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Tuy nhiên, có 4 trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện là: yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn vổi tài sản, yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, tranh chấp về quyền sử dụng đất, trường hợp khác do luật quy định.

Cũng không tính vào thời hiệu khỏi kiện trong khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khỗi kiện không thể khối kiện trong phạm vi thời hiệu hoặc chưa có người đại diện cho người quyền khởi kiện chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

 

4. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm

– Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan hoặc theo yêu cầu thì có hiệu lực từ thời điểm được công chứng, chứng thực.

– Hợp đồng bảo đảm không thuộc trường hợp trên thì có hiệu lực từ thời điểm do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được giao kết.

Trường hợp tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.

Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.

 

5. Quy định chung về thời hiệu khởi kiện

Khi thời hiệu khỏi kiện chưa hết, thì thời hiệu khỗi kiện bắt đầu lặp lại trong ba trường hợp sau đây: bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khỗi kiện; các bên đã tự hòa giải với nhau.

Vì hợp đồng bảo đảm thực chất chỉ là một hợp đồng phụ, là một bộ phận của hợp đồng cho vay, mua bán, dịch vụ, nên việc khỏi kiện nói chung và thời hiệu khởi kiện để giải quyết tranh chấp nói riêng được tính theo thời hiệu khởi kiện hợp đồng chính.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự nói chung, vụ kiện đòi tiền cho vay nói riêng từ trước đến nay luôn như một cái bẫy pháp lý quá phức tạp, với quá nhiều thay đổi và rất khó theo dõi, thực hiện.

Trong khoảng 25 năm qua, pháp luật đã có ít nhất 6 lần thay đổi về thời hiệu khỏi kiện đối với tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp đồng cho vay nói riêng, với thời hiệu lần lượt là vô hạn, 3 năm, 6 tháng, 2 năm, vô hạn, 2 năm và 3 năm hoặc vô hạn. Ngoài ra, còn nhiều thời hiệu khỏi kiện khác được quy định tại một số đạo luật chuyên ngành.

Thời hiệu khởi kiện đòi nợ không bị hạn chế trước thời điểm 01/7/1991.

Từ ngày 01/7/1991 đến 30/6/1994: thời hiệu khởi kiện đòi nợ đối với tranh chấp dân sự là 3 năm.

Từ ngày 01/7/1994 đến 30/6/2006: thời hiệu khỗi kiện tranh chấp hợp đồng kinh tế chỉ là 6 tháng.

Từ ngày 01/7/1996 đến 31/12/2005: thời hiệu khỗi kiện là vô thời hạn.

Từ ngày 01/01/2006 đến hết ngày 31/12/2011: thời hiệu khởi kiện là 2 năm.

Từ ngày 01/01/2012 đến ngày 30/6/2016: thời hiệu khỏi kiện nói chung là 2 năm, riêng kiện đòi nợ là vô thời hạn.

Từ ngày 01/7/2016 đến ngày 31/12/2016: thời hiệu khỏi kiện nói chung và đòi nợ đều là 2 năm.

Từ ngày 01/01/2017, thời hiệu khởi kiện là 3 năm. Bộ luật Dân sự năm 2015, đã bỏ đi trường hợp không áp dụng thời hiệu khồi kiện là “đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu” đã được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự trước đây, mà chỉ còn quy định trường hợp không áp dụng thời hiệu khỏi kiện là “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu”.

Việc đòi lại tài sản trong hợp đồng vay tài sản nói chung, vay tiền nói riêng, không áp dụng được thời hiệu khỏi kiện trong trường hợp “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu” vì bên cho vay không còn quyền sở hữu tài sản là tiền vay kể từ khi giải ngân cho bên vay theo quy định sau: “bên vay trỏ thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó”.

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “thời hiệu khỏi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng”, mà lại không đề cập đến Trọng tài, trong khi đó, Bộ luật lại quy định “trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Toà án hoặc trọng tài”.

Vì vậy, nếu theo đúng các quy định trên thì từ năm 2017 trỏ đi, thời hiệu khỏi kiện đốì với tranh chấp đòi lại tiền cho vay nói riêng và tài sản cho vay nói chung chỉ còn 3 năm (khác với 2 năm hoặc vô thời hạn trong 20 năm qua và quay về giông với giai đoạn từ 01/7/1991 đến 30/6/1996 theo Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991). Có một điểm khác với trước đây, là thời hạn này thay vì tính từ khi xảy ra tranh chấp như trước, thì sẽ được tính “từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.

Ngoài ra, kể cả trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đòi nợ là vô thời hạn thì cũng còn rất mập mờ trong việc xác định có hay không được quyền đòi tiền lãi và xử lý tài sản bảo đảm. Nếu xác định đó là tranh chấp hợp đồng nói chung, thì việc hết thời hiệu khởi kiện sẽ đồng nghĩa với việc bên cho vay sẽ mất quyền đòi nợ lãi và xử lý tài sản bảo đảm, nhất là tài sản thế chấp của người thứ ba.

Tóm lại, thời hiệu khởi kiện nói chung, khỏi kiện đòi lại tài sản cho vay nói riêng, đã bị thay đổi quá nhiều, không dựa trên bất kỳ cơ sở khoa học cũng như thực tiễn nào, đồng thời luôn là nỗi ám ảnh nhức nhốỉ và gây ra rất nhiều khó khăn và rủi ro pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, có thể kết luận về thời hiệu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng cho vay và hợp đồng bảo đảm như sau:

Thời hiệu khởi kiện để xử lý tài sản bảo đảm hay giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo đảm phụ thuộc vào thời hiệu khởi kiện hợp đồng chính;

Từ năm 2006 cho đến hết năm 2016, thời hiệu khỏi kiện 2 năm là tương đối ngắn, không bảo đảm quyền của người có quyền lợi bị xâm phạm, nhất là giai đoạn từ 31/12/2011 trở về trước chỉ được tính “từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm”.. Từ ngày 01/01/2012 trở đi, thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Trước đây, thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp đòi nợ theo hợp đồng tín dụng nói riêng, hợp đồng vay tài sản nói chung là vô thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì từ năm 2017 trở đi chỉ còn 3 năm nếu theo đúng quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 (trừ trường hợp sau này có hướng dẫn hoặc giải thích khác);

Nếu như trước đây, một vụ tranh chấp hợp đồng hết thời hiệu khỏi kiện thì sẽ bị toà án không thụ lý hoặc trả lại hồ sơ yêu cầu giải quyết tranh chấp, thì theo quy định mới nêu trên, Toà án vẫn phải thụ lý vụ án và chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của ít nhất một bên.