1. Giới thiệu tác giả

Cuốn sách Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam do TS. Vũ Thị Phượng biên soạn.

2. Giới thiệu hình ảnh sách

Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam

Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam

Tác giả: TS. Vũ Thị Phượng

Nhà xuất bản Công an nhân dân

3. Tổng quan nội dung sách

Trẻ em là đối tượng cần được quan tâm, ưu tiên bảo vệ trong xã hội. Vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em luôn được coi là một trong những chính sách hàng đầu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cuốn sách “Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Thị Phượng phân tích các quy định pháp luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền con người của trẻ em tại Việt Nam đồng thời đưa ra các yêu cầu, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động này.

Mở đầu cuốn sách, tác giả trình bày khái niệm, sự cần thiết và phương thức bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự. Trẻ em là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nên quyền con người của trẻ em cũng dễ bị xâm phạm, do đó cần được bảo vệ bởi hệ thống các quy phạm pháp luật khác nhau. Ba phương thức bảo vệ quyền con người của trẻ em bao gồm: Tội phạm hoá và đe doạ trừng phạt những hành vi xâm phạm quyền con người dễ bị tổn thương của trẻ em; quy định những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự và biện pháp xử lý thể hiện quyền ưu tiên tư pháp của người phạm tội là trẻ em; phi tội phạm hoá những hành vi cấu thành tội phạm hạn chế quyền con người của trẻ em. Ngoài ra, tác giả đưa ra chính sách, chuẩn mực quốc tế và pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới về việc bảo vệ quyền con người của trẻ em.

Chương tiếp theo, tác giả khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền con người của trẻ em qua các giai đoạn: Từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực; từ khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong bảo vệ quyền con người của trẻ em ở Việt Nam, tác giả phân tích những hạn chế trong quá trình áp dụng và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó, bao gồm nguyên nhân từ hạn chế của pháp luật, tổ chức hệ thống tư pháp trẻ em, hạn chế trong thủ tục tố tụng hình sự đối với các vụ án trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm, trong nhận thức của gia đình, nhà trường và cộng đồng trong tố giác tội phạm xâm phạm quyền con người của trẻ em.

Chương cuối sách là những yêu cầu và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam. Theo tác giả, việc bảo vệ quyền con người của trẻ em Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ việc bảo vệ trẻ em phải đảm bảo sự phát triển bền vững tương lai của trẻ em nên các quy định của pháp luật cần xuất phát từ thực tiễn, hệ thống các nguyên tắc và biện pháp xử lý trẻ em phạm tội theo hướng lấy mục đích giáo dục là chính. Bên cạnh việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp xâm phạm quyền con người của trẻ em, cần tăng cường các biện pháp phòng chống tội xâm phạm quyền con người của trẻ em trong đời sống thực và không gian mạng; việc hội nhập quốc tế cần đảm bảo tính phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người của trẻ em bao gồm: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan đến bảo vệ quyền con người của trẻ em. Bên cạnh các Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và thúc đẩy các hoạt động xây dựng các thiết chế nhà nước nhằm phát huy tối đa khả năng bảo vệ trẻ em nói chung và bảo vệ trẻ em chịu sự tác động của tội phạm nói riêng. Trong đó, việc thí điểm xây dựng 50 Toà án gia đình và người chưa thành niên bước đầu đã có hiệu quả tích cực, tạo một thiết chế đặc biệt dành riêng cho việc xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên trong đó có trẻ em. Ngoài ra, tác giả cũng trình bày các giải pháp khác: Tăng cường sức mạnh của các thiết chế tư pháp và nâng cao vai trò của người tiến hành tố tụng; hợp tác với tổ chức quốc tế trong xây dựng dữ liệu quốc gia về đối tượng bị xử lý hành chính, hình sự về hành vi xâm hại tình dục trẻ em, bắt cóc, buôn bán trẻ em; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và sự tham gia của các thiết chế xã hội vào việc phòng ngừa xâm phạm quyền con người của trẻ em.

4. Đánh giá bạn đọc

Bảo vệ quyền con người của trẻ em luôn luôn được coi là một trong những chính sách hàng đầu của các quốc gia. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em ngày 20/02/1990. Với nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có nhiều hạn chế và thách thức nhất định liên quan đến việc thực hiện hóa đầy đủ và không ngừng nâng cao khả năng được thụ hưởng quyền con người ở trẻ em.

Cuốn sách “Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật Việt Nam” đã tiếp cận được các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng lấy con người của trẻ em làm trung tâm và chứng minh bằng các quy định của pháp luật hình sự qua các thời kỳ lịch sử, đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế và so sánh với pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới. Tác giả nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự, làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó để đưa ra biện pháp góp phần bảo vệ hiệu quả quyền con người của trẻ em trên hai phương diện trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm.

Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích cho độc giả nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành tư pháp hình sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em và các bạn đọc quan tâm.

5. Kết luận

Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam”.

Luật LVN Group chia sẻ dưới đây một số nội dung bảo vệ quyền con người của trẻ em trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành để bạn đọc tham khảo:

Bộ luật Hình sự là một văn bản quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em – đã có những quy định cụ thể bảo vệ trẻ em trên hai phương diện: trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm.
Trên phương diện trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta trong xử lý các tội phạm với trẻ em theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cụ thể, hành vi mua bán người dưới 16 tuổi có thể bị xử lý với mức cao nhất là tù chung thân (Điều 151); hành vi đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152) và hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 BLHS) đều được xác định mức cao nhất là loại tội rất nghiêm trọng; hành vi xâm hại tình dục trẻ em, xâm hại đến danh dự nhân phẩm của trẻ em bị xử lý theo các tội như tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” (Điều 142), tội “Cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” (Điều 144), tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” (Điều 145), tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” (Điều 146), tội “Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” (Điều 147), tội “Mua dâm người dưới 18 tuổi” (Điều 329). Đây là nhóm hành vi gây ra những sang chấn tâm lý tiêu cực mạnh mẽ và có thể ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống của trẻ nên đa phần được quy định là những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 đã có những quy định mới thể hiện rõ hơn quan điểm bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân cho trẻ em. Trong đó, đáng chú ý là các quy định như bổ sung hành vi “vứt bỏ con mới đẻ” là dấu hiệu định tội “Giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ” (Điều 124), bổ sung “thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” bên cạnh hành vi giao cấu trong dấu hiệu định tội của các tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145) và hành vi “Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” (Điều 147)…
BLHS năm 2015 cũng đã quy định cụ thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên cơ sở kế thừa và sửa đổi, bổ sung chính sách xử lý hình sự đối với nhóm trẻ em này trong Chương XII – Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã một lần nữa khẳng định “xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91). Bên cạnh việc quy định mới theo hướng thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của các đối tượng phạm tội này (khoản 2 Điều 12), BLHS năm 2015 còn mở rộng hơn phạm vi miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội so với BLHS năm 1999 (Điều 91) và lần đầu tiên ghi nhận các biện pháp giám sát, giáo dục như khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã phường, thị trấn đối với trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 92)….