1. Bài học về thương mại và môi trường nhìn từ một vụ kiện trong WTO

Trong các vụ kiện thương mại liên quan đến môi trường trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có một ví dụ rất thú vị về việc phá “hàng rào xanh” nhờ áp dụng quy tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO. Đó là vụ kiện tôm – rùa biển do Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đưa ra chống lại Hoa Kỳ. Kết luận của vụ kiện là bài học quý cho tất cả các nước thành viên WTO trong hoạt động xuất/nhập khẩu liên quan đến lĩnh vực thương mại và môi trường.

Mục tiêu là bảo vệ động vật quý hiếm hay là sự phân biệt đối xử?

Năm 1997, các nước Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đưa ra vụ kiện chống Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm từ tôm với lý do bảo vệ rùa biển.

Việc kiện của 4 nước nói trên xuất phát từ Luật Bảo vệ các loài quý hiếm của Hoa Kỳ (ban hành năm 1973), theo đó, ngư dân Hoa Kỳ đánh bắt tôm cần phải sử dụng dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc lưới với mục đích bảo vệ loài rùa biển di cư đang có nguy cơ bị tuyệt chủng vì các hoạt động của con người. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ tiến hành đàm phán nhằm ký kết với các nước thực hiện nhiều hoạt động đánh bắt tôm các thoả thuận về bảo vệ rùa biển. Các loại tôm được đánh bắt với kỹ thuật có thể gây nguy hiểm cho rùa biển được pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ sẽ bị cấm nhập khẩu vào nước này, trừ khi Tổng thống Hoa Kỳ chứng nhận mỗi năm trước Thượng nghị viện là việc đánh bắt tôm tại nước liên quan thoả mãn các quy định về bảo vệ rùa biển. Năm 1989, tại Điều 609 Luật Dân sự Hoa Kỳ, quy định này đã được áp dụng cả đối với các tàu đánh bắt tôm của các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ.

Trong hai năm 1991 và 1993, một số quy định được đưa ra nhằm thi hành Điều 609 nêu trên. Theo các quy định này, Điều 609 chỉ được áp dụng cho các nước vùng Caribê và Tây Atlantic. Tháng 4.1996, các quy định này đã được áp dụng cho tất cả các loài tôm được đánh bắt trên toàn thế giới.

Tháng 10.1996, Tòa Thương mại của Hoa Kỳ (CIT) quyết định việc cấm nhập khẩu tất cả các loại tôm và các mặt hàng từ tôm được đánh bắt bởi công dân hoặc tàu của các nước nếu không có giấy chứng nhận phù hợp với Điều 609 (yêu cầu đánh bắt tôm không gây hại cho rùa biển).

Trước những tổn thất kinh tế về đánh bắt và chế biến tôm do quy định của Hoa Kỳ gây ra, 4 nước nói trên đã khởi kiện Hoa Kỳ tại WTO. Giải trình với Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB), các nước này đã viện dẫn Điều XI.1 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) 1994 về bãi bỏ các hạn chế định lượng.

Trong khi đó, Cơ quan phúc thẩm của WTO1 cho rằng, các biện pháp của Hoa Kỳ nhằm bảo vệ rùa biển là phù hợp với Điều XX của GATT, tuy nhiên, lại không phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc. Lý do là, đã có sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối với các thành viên khác nhau của WTO. Trước đó, tuân theo quy định của Điều 11 và Điều 12 Hiệp định TBT, Hoa Kỳ đã dành ưu đãi cho các nước vùng biển Caribê bằng sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính, và cho phép có giai đoạn chuyển đổi để ngư dân các nước này có thể sử dụng các dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc vào lưới khi đánh bắt tôm và xuất khẩu vào Hoa Kỳ.

Bốn nước nguyên đơn và bên thứ ba (các nước thành viên WTO không trực tiếp tham gia vào vụ tranh chấp nhưng tham dự các phiên xét xử với tư cách là bên thứ 3) đã nhấn mạnh phạm vi áp dụng của Điều XI.1. Theo đó, Điều này phải được áp dụng với tất cả các biện pháp phi thuế quan mà một thành viên áp dụng nhằm cấm hoặc hạn chế nhập/xuất khẩu hoặc bán hàng nhằm mục đích xuất khẩu các sản phẩm. Như vậy, muốn biết một biện pháp do một thành viên áp dụng có vi phạm điều XI.1 hay không, cần xem xét 2 yếu tố: 1) Biện pháp này có tác dụng cấm hay hạn chế thương mại quốc tế hay không và 2) Biện pháp này có phải là phi thuế quan hay không?

Theo các nước nguyên đơn, việc cấm vận của Hoa Kỳ dựa trên Điều 609 vi phạm cả hai điều kiện trên. Thứ nhất, biện pháp này có tác dụng cấm hay hạn chế nhập khẩu tôm và các sản phẩm từ tôm từ các quốc gia không thỏa mãn các điều kiện do Hoa Kỳ đưa ra. Thứ hai, biện pháp này không mang tính thuế quan. Do đó, các nguyên đơn cho rằng biện pháp này vi phạm Điều XI.1.

Ngoài Điều XI của GATT, một số nước còn viện dẫn Hiệp định TBT và Hiệp định về kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) của WTO. Ví dụ, Điều 2 Hiệp định TBT yêu cầu các thành viên cam kết bảo đảm sao cho việc xây dựng, thông qua và áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật phải không nhằm mục đích và/hoặc tạo ra rào cản không cần thiết cho thương mại quốc tế.

Tự do hoá thương mại và bảo vệ môi trường

Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm của WTO (dưới đây gọi tắt là AB) về vụ tôm – rùa đỏ lại cho các nhà phân tích những cảm giác đan xen về mối quan hệ đáng được quan tâm giữa tự do hoá thương mại và bảo vệ môi trường. Nó cho thấy quyền bảo vệ môi trường của các quốc gia khi thông qua các biện pháp đơn phương, nhưng mặt khác, trong vụ tranh chấp này, quốc gia áp dụng các biện pháp như vậy cũng thấy mình vi phạm nghĩa vụ WTO. Ở bất cứ mức độ nào, phán quyết của Cơ quan phúc thẩm cũng nuôi dưỡng suy nghĩ cho tất cả các nhà thực thi chính sách thương mại là phải kiểm tra lại xem chúng ta đang đứng ở đâu trong cuộc tranh luận về lợi ích thương mại và vấn đề bảo vệ môi trường. Quyết định của AB là một bước đi đúng đắn nhưng đồng thời để lại một số vấn đề cần làm rõ cho hoạt động xét xử trong tương lai.

Thứ nhất, quyền bảo vệ môi trường của các thành viên WTO.

Một câu được đặt ra là liệu Hiệp định GATT trong các tranh chấp liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường có phải là một công cụ loại bỏ luật liên quan đến môi trường hay không? Trong khi chính các thành viên WTO phải tuân thủ các luật như vậy, khi chấp nhận ký vào một hiệp định quốc tế đa biên về bảo vệ môi trường, sau đó được cụ thể hoá bằng nội luật.

Do đó, Hiệp định GATT chỉ nên đưa ra quy định chặt chẽ đối với các hoạt động của các chính phủ ở mức độ giới hạn được các quốc gia có chủ quyền nhất trí. Đây là chức năng quan trọng của Hiệp định GATT/WTO khi thực thi nguyên tắc không phân biệt đối xử.

Thứ hai, sự đa dạng của hoạt động lập quy trong WTO.

Ở mức độ khái quát, quyết định của AB về vụ tôm – rùa đã giúp làm rõ bức tranh về hoạt động lập quy của WTO. Ban hội thẩm của WTO đã vạch ra sự không nhất quán với Điều XX của GATT đối với biện pháp của Hoa Kỳ đặt ra điều kiện tiếp cận của sản phẩm tôm vào thị trường nước này, với việc sử dụng phương pháp đánh bắt tôm đặc biệt để làm giảm việc ngẫu nhiên bắt phải rùa. Cơ quan phúc thẩm đã lật ngược lại điều này. Theo đó, việc áp đặt điều kiện cho tiếp cận thị trường bằng cách chấp nhận trước các chính sách nhất định là vi phạm quy định của GATT. Và Cơ quan phúc thẩm đã giải thích Điều XX của GATT như là một công cụ của sự đa dạng trong quản lý, theo đó, các thành viên WTO có thể tự do theo đuổi mục tiêu chính sách riêng của mình mà không cần có các hiệp định song phương hoặc đa phương. Các mục tiêu này được nêu trong phần dẫn đề Điều XX của GATT, theo đó các nguyên tắc của Điều XX của GATT phải được tôn trọng.

AB đã nêu lên một thực tế là, Hoa Kỳ trong đàm phán đã không hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên WTO khác để làm rõ thế nào là dụng cụ đánh bắt tôm song không bắt phải rùa biển, việc chuyển giao công nghệ như vậy ra sao? Bên cạnh đó, không phải các nước thành viên WTO nào cũng có thể đáp ứng ngay và cùng một lúc các yêu cầu mà Hoa Kỳ đặt ra. Vì vậy, nếu có phải đáp ứng thì các thời hạn khác nhau cần được đưa ra cho các nước khác nhau.

Trong vụ tranh chấp tôm – rùa, một câu hỏi nữa cần đặt ra là tới mức độ nào thì rùa có thể được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt. Chỉ khi câu hỏi này được trả lời một cách thoả đáng thì Hoa Kỳ có thể dựa vào Điều XX (g) của GATT để biện minh cho yêu cầu của mình trong việc cấm nhập khẩu tôm. Trong báo cáo của AB viết: “Chúng ta không thể tin rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt và nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo là ngoại trừ lẫn nhau. Một bài học mà khoa học sinh học hiện đại dạy cho chúng ta là, các cá thể sống về nguyên tắc có khả năng tái sinh và cũng trong nghĩa đó có khả năng tái tạo, trong một số tình huống nhất định thực sự bị giảm thiểu về số lượng, cạn kiệt và tuyệt chủng thường là do các hoạt động của con người. Các nguồn tài nguyên phục vụ cuộc sống có ‘giới hạn’ là các tài nguyên như dầu lửa, quặng sắt và một số nguồn tài nguyên khác”.

Thay cho lời kết

Việc xét xử vụ tôm – rùa cho chúng ta thấy rõ rằng, các biện pháp đơn phương (sự đa dạng của lập quy) trong lĩnh vực môi trường là không nhất quán với WTO. Tuy nhiên, một loạt câu hỏi đã được đặt ra nhưng vẫn chưa có câu trả lời. Điều gì là phạm vi điều chỉnh pháp luật chủ yếu trong luật pháp môi trường quốc gia? Đâu là mối quan hệ giữa Điều XX (b) và (g) của GATT? WTO có thể áp đặt sự đồng bộ và/hoặc tính hiệu quả khi đề cập tới vấn đề bảo vệ môi trường và vai trò của MEA (Hiệp định đa phương về môi trường) trong hệ thống pháp lý của WTO là ở đâu?

Có thể hiểu rằng, việc diễn giải một cách đúng đắn luật pháp quốc tế đối với Điều XX của GATT có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề đã được đề cập ở trên. Các lĩnh vực với tính pháp lý chấp nhận được và mối quan hệ giữa Điều XX của GATT với MEA là điều đầu tiên mà các nhà lập quy cần phải quan tâm khi suy tính việc áp dụng luật pháp quốc tế. Có như vậy mới có thể rút ngắn khoảng cách giữa các nhà hoạch định chính sách thương mại và các nhà hoạch định chính sách bảo vệ môi trường. Việc xem xét tính hiệu quả của quá trình này nên chăng để cho các nhà môi trường khi họ gặp gỡ, thảo luận và đàm phán để đi đến ký kết các MEA. WTO cần giới hạn trong việc thực hiện chức năng pháp lý đối với vấn đề này và hãy dành chức năng lập pháp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho các đại diện quốc gia tham gia xây dựng luật quốc tế nằm ngoài khuôn khổ WTO.

Chú thích:

1 Để giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên, WTO có các cơ quan sau :

1. Ban Hội thẩm – Parnel (xét xử sơ thẩm).

2. Cơ quan phúc thẩm – AB (xét xử phúc thẩm).

3. Cơ quan giải quyết tranh chấp – DSB (đưa ra phán quyết cuối cùng).

SOURCE: TẠP CHÍ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌCVĂN PHÒNG TBT VIỆT NAM (tổng hợp)

2. Cuộc chơi WTO: Cách đặt vấn đề của J.E.STIGLITZ

Sau một quá trình đàm phán kéo dài 11 năm, Việt Nam đã trở nên thành viên Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organisation [WTO]) từ đầu năm nay (Năm 2007 – Civillawinfor). Vấn đề bây giờ của Việt Nam, theo dư luận phổ biến hiện nay ở trong nước, là thực thi các cam kết đã thoả thuận, tôn trọng các luật chơi mà ta đã công nhận: thoả thuận này được xem là cân đối, các luật chơi của WTO là bình đẳng.

Theo cách đặt vấn đề này, các chuyên gia kinh tế cho rằng vấn đề còn lại là “đưa đất nước bay lên từ đường băng WTO”.[1] Đường băng này bằng phẳng, và Việt Nam có cất cánh hay không là do năng lực của bản thân, trước tiến là năng lực cải cách toàn diện: nó tuỳ thuộc vào “những yếu tố nội tại” mà “tư cách thành viên WTO không tạo nên”.[2] Theo phát biểu của một chuyên gia: “Thắng, thua trước hết tại mình chứ không phải tại WTO, vì cho đến nay chưa có nước nào vì vào WTO mà khánh tận, phá sản và cũng chưa nước thành viên nào nạp đơn xin rút lui khỏi tổ chức này”.[3]

Cuộc chơi WTO: Cách đặt vấn đề của J.E.STIGLITZ

Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi:1900.0191

Cũng có một cách khác để tiếp cận vấn đề, đi từ mặt trái của WTO và cũng là bộ mặt thật của nó, mà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không nêu lên hay tránh không muốn nếu ra, chí ít trong thời kỳ đàm phán vào WTO, vì nhiều lý do: có thể do yêu cầu đấu tranh tư tưởng với quan điểm chống gia nhập WTO trong nội bộ của đảng; cũng có thể do yêu cầu tranh thủ ngoại giao những cường quốc tư bản chủ nghĩa có tiếng nói quyết định trong việc kết nạp. Bộ mặt này của WTO được nhà kinh tế Mỹ Joseph Stiglitz vạch ra thẳng thừng trong hai tác phẩm mới đây của ông: Fair trade for all. How trade can promote development, viết cùng với Andrew Charlton [2005], và Making globalization work [2006].[4]

Trong kinh tế học hiện đại, J. Stiglitz được biết đến như là người thầy của kinh tế học vi mô mới (mà đặc tính là từ bỏ giả thuyết về thị trường cạnh tranh hoàn hảo), và đóng góp của ông cho thuyết về thông tin đã được thưởng giải Nobel kinh tế học (cùng với George Akerlof và Michael Spence) năm 2001. Stiglitz thuộc trường phái Keynes mới, chủ trương xác lập cơ sở vi mô của những mất cân bằng vĩ mô (như thất nghiệp không tự nguyện của Keynes): đối phó với tính bất trắc và thông tin phi cân xứng, các tác nhân kinh tế có lối ứng xử “cứng nhắc”, họ chỉ tham gia các thị trường (lao động, tín dụng, đất đai) có những chuẩn tắc mà họ thương lượng và được nhà nước thể chế hoá. Nói về bàn tay vô hình điều tiết thị trường của Adam Smith, ông cho rằng: “Đúng là vô hình, bởi vì nó không có. Thị trường không hề tự điều tiết”.[5]

Ngoài trường đại học, Stiglitz được tín nhiệm làm chủ tịch của Hội đồng các tư vấn kinh tế (Council of Economic Advisers) của tổng thống Clinton các năm 1993-1997, rồi làm kinh tế gia trưởng và phó chủ tịch Ngân hàng thế giới (World Bank [WB]) các năm 1997-2000. Ở cương vị này, Stiglitz không những công kích quan điểm chính thống của Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund [IMF]), ông còn gây cuộc tranh cãi trong nội bộ WB giữa phe “tân cổ diển” và phe “xét lại” mà ông là đại biểu, và cuối cùng ông đã phải từ chức ra đi. Tác phẩm Globalization and its discontents [2002] tố cáo “sự cuồng tín của chủ nghĩa tự do” đang chế ngự các định chế tài chính quốc tế: “WB, IMF, WTO đầy dẫy những chuyên gia giáo điều và tự phụ, những bonsevic của thị trường, đã chồng chất bao nhiều điều phi lý và tổn hại ở các nước nghèo. Không có gì phải ngạc nhiên nếu sự nổi giận đang dâng lên từ các nước này”.[6]

Tuy hợp tác thường xuyên và tán thành nhiều phân tích của phong trào toàn cầu hoá “theo kiểu khác” (altermondialisme), Stiglitz xác định lập trường riêng biệt của ông, một thứ “con đường thứ ba” bắt nguồn từ nhận thức tính khiếm khuyết của thị trường và vai trò cần thiết của nhà nước.[7] Đối với WTO, ông từ khước hai thái độ đối lập: một bên là thái độ chính thống tân cổ điển cho rằng cuộc chơi WTO căn cứ trên lợi thế so sánh, cho nên ai cũng đều có lợi, “không có nước thua cuộc”; bên kia là thái độ phê phán, phủ nhận WTO của một số tổ chức phi chính phủ chủ trương toàn cầu hoá theo kiểu khác, như Focus on globalsouth với quan điểm “Một thế giới không có WTO” – đứng đầu tổ chức này, nhà xã hội học Philippin W. Bello có đến Việt Nam ba lần để cảnh báo ta không nên tham gia cuộc chơi WTO nếu không muốn thua thiệt.[8] Stiglitz không phủ nhận chủ nghĩa tư bản mà chỉ phê phán hình thái tân tự do hiện tại của nó, và ông chủ trương đấu tranh cải cách WTO “theo kiểu khác”.[9] Chấp nhận “giả thuyết” về mối liên hệ tích cực giữa mậu dịch và phát triển trong những điều kiện nhất định [Stiglitz 2005, tr. 30-31], ông cho rằng toàn cầu hoá là một cơ may cho các nước kém phát triển, nếu nó được cai quản trong một khung định chế quốc tế dân chủ. Ông chủ trương thiết kế “một chế độ mậu dịch quốc tế hướng đến lợi ích của các nước nghèo mà vẫn có hiệu ứng tổng thể tích cực cho các nước công nghiệp tiên tiến – một số lợi ích riêng ở các nước này, tất nhiên, có thể bị thiệt thòi” [Stiglitz 2006, tr. 129].

Đối với một nước nghèo đã chọn đứng ở trong WTO, như Viêt Nam, chú trọng cách đặt vấn đề của Stiglitz – người bạn của Việt Nam, đã bốn lần đến nước ta – ắt là điều hữu ích và cần thiết. Bài thuyết trình sẽ giới thiệu và triển khai một số quan điểm của Stiglitz khi ông: xem xét lịch sử WTO (I); xác định hệ tư tưởng WTO (II); đánh giá sân chơi và luật chơi WTO (III).

I. Lịch sử WTO

Trả lời những người phê phán nó, WTO thường đáp lại rằng chế độ đàm phán đa phương ở WTO là dân chủ nhất, bởi cách thức quyết định không theo nguyên tác đa số mà dựa trên nguyên tắc đồng thuận. Thay vì thiểu số phải phục tùng đa số thì “mỗi nước phải được thuyết phục để đồng ý” – nếu cần, nước chưa đồng ý phải nhận được thêm một lợi ích nào đó để đổi lấy sự chấp thuận của nó. Như vậy, đồng thuận có nghĩa là “tất cả các nước đều chầp nhận quyết định, không có bất cứ sự phản đối nào”, bởi vì ai cũng đều có lợi.[10]

Đó là hình thức bề ngoài. Trên thực tế, lịch sử các hiệp định mậu dịch quốc tế trong WTO và tiền thân của nó – Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (General Agreement on Tariff and Trade [GATT]) – nói lên tương quan sức mạnh hơn là lợi ích so sánh của các nước. Nó biểu hiện thế bá quyền của các nước phát triển, và vai trò chi phối của “Bộ tứ” (Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu, Nhật Bản, Canada).[11] Stiglitz vạch rõ “thái độ hai mặt” của các nước phát triển hô hào tự do trao đổi: “Họ đàm phán bãi bỏ trợ cấp và giảm thuế quan trên những sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh, nhưng ngại ngừng mở cửa thị trường và từ bỏ trợ cấp trong những lĩnh vực mà lợi thế so sánh thuộc về các nước đang phát triển. Kết quả là chế độ mậu dịch quốc tế hiện nay bất lợi về nhiều mặt đối với các nước đang phát triển” [Stiglitz 2005, tr. 41].

Thành hình năm 1947, GATT đã tập trung cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng công nghiệp mà ưu thế cạnh tranh thuộc về các nước phát triển. Còn các mặt hàng quan trọng đối với các nước đang phát triển, như nông sản hay hàng dệt may, thì bị đẩy ra ngoài đàm phán. Riêng về hàng dệt may, các nước phát triển đã bắt tay nhau để áp đặt thô bạo Thoả thuận về thương mại quốc tế đối với hàng dệt may bằng bông năm 1961, rồi Thoả thuận đa sợi (Multi-Fibre Arrangement [MFA]) năm 1973 là những văn bản công khai vi phạm luật chơi không phân biệt đối xử – nguyên tắc nền tảng của GATT (họ gọi đó là những “ngoại lệ”). Các “thoả thuận” này cho phép Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu hạn chế định lượng nhập khẩu hàng dệt may bằng chế độ hạn ngạch, mục đích là ngăn chận hàng xuất khẩu đến từ châu Á – khởi đầu là từ các “nước công nghiệp hoá mới” (new industrial countries) – Hàn Quốc Đài Loan, Hồng Kông –, sau đó là từ các “nước đang lên” (emerging countries) – Trung Quốc và ASEAN.[12]

Vào giữa các năm 80, khi lợi thế so sánh bắt đầu thay đổi trong hoạt động công nghiệp, các nước phát triển chuyển ưu thế canh tranh sang các ngành dịch vụ, các sản phẩm công nghệ cao và đầu tư ra nước ngoài. Tại vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) chấm dứt GATT và sáng lập WTO, Bộ tứ đề nghị với các nước đang phát triển “một cuộc mặc cả lớn”. Các nước phát triển cam kết sẽ đưa hàng nông nghiệp vào đàm phán của WTO (Hiệp định về nông nghiệp (Agreement on Agriculture [AoA]) và bãi bỏ hoàn toàn chế độ hạn ngạch hàng dệt may vào năm 2005 (Hiệp định về hàng dệt và may mặc (Agreement on Textiles and Clothing [ATC]). Phía các nước đang phát triển cam kết mở cửa thị trường dịch vụ (Hiệp định chung về thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (General Agreement on Trade in Services [GATS]), chấp nhận chế độ về quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights [TRIPs]) và không phân biệt đối xử với đầu tư nước ngoài (Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Agreement on Trade-Related Investment Measures[TRIMs]).

WTO ra đời năm 1995 trong sự hồ hởi của chủ nghĩa tự do kinh tế toàn thắng, song tác động của nó không như các nước đang phát triển trông chờ. Họ cảm nhận rằng các hiệp định làm nền tảng cho WTO không hề cân đối: trong tổng lợi ích mà vòng Uruguay ước tính mang lại hàng năm cho toàn cầu, thế giới đang phát triển – quy tu 85% dân số – hưởng được không đến một phần ba; cái “được” này lại tập trung vào số ít nước xuất khẩu quan trọng trong khi nhiều nước khác chịu tổn thất, mất mát.[13] Tương quan mậu dịch quốc tế ngày càng thêm bất bình đẳng: thế giới phía Bắc thu trên hàng hoá nhập từ các nước phía Nam một mức thuế quan bình quân cao gấp bốn lần so với hàng hoá thuộc các nước phía Bắc;[14] và tổng viện trợ phát triển của phía Bắc chỉ bù đắp một phần ba thiệt thòi đó của phía Nam [Stiglitz 2006, tr. 124-125].

Đối với vấn đề mà các nước đang phát triển bức xúc nhất, là hồ sơ nông nghiệp, Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu lờ đi các cam kết: họ khư khư duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp (khoảng 300 tỷ USD/năm) và tiếp tục cạnh tranh bất chính với các nước đang phát triển: do được trợ cấp, giá nông sản do Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu xuất khẩu ở dưới mức giá sản xuất của những nước đang phát triển. Tại hội nghị WTO đầu tiên họp tại Singapore năm 1996, Bộ tứ lại lái chưong trình nghị sự vào những vấn đề không hề là trọng tâm của các nước phía Nam: đầu tư quốc tế, chính sách cạnh tranh, chế độ mua sắm của công, điều kiện làm cho thương mại dễ dàng (gọi là “những vấn đề Singapore”). Năm năm sau khi vòng Uruguay kết thúc, thế giới phía Nam nhận thức rõ rằng nó bị đánh lừa trong “cuộc mặc cả lớn”. Hội nghị Seattle năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên, các nước đang phát triển đã đương đầu với các nước phát triển và bác bỏ đề xuất của Bộ tứ mở ra một vòng đàm phán mới về tự do hoá thương mại (mang tên vòng Thiên niên kỷ). Trong khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân sự thế giới xuống đường biểu tình ồ ạt, phản kháng WTO.

Với chuyển biến trong tương quan sức mạnh, từ nay, Bộ tứ phải thuyết phục các nước đang phát triển bằng cách quan niệm lại vòng đàm phán WTO: trọng tâm phải đặt vào phát triển, tự do hoá thương mại chỉ là một phương tiện. Thông qua tại hội nghị Doha năm 2001, tuyên bố khai mạc của vòng đàm phán “về phát triển” xác định “đặt nhu cầu và lợi ích của các nước đang phát triển vào trung tâm chương trình làm việc”, và “thương mại quốc tế có thể giữ vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và giảm bớt đói nghèo”.[15] Dù đặt chữ ký dưới bản tuyên bố này, nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi lời hứa của phía Bắc, và họ đã có lý. Một lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam kết của họ, trước tiên trong hồ sơ nông nghiệp. Năm 2002, Hoa Kỳ ra đạo luật tăng trợ cấp cho nông nghiệp lên gấp đôi. Đưa ra ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu hoá ra chỉ là thay đổi hình thái, màu mè của những trợ cấp trước đây (chuyển trợ cấp nông sản thành trợ cấp nông dân).

Hội nghị Cancun năm 2003 chứng kiến phía Bắc từ chối nhân nhượng trên các hồ sơ mà các nước đang phát triển yêu cầu, mà lại đòi hỏi họ phải giảm thuế quan và mở cửa thị trường của một số hàng công nghiệp và dịch vụ; nó còn muốn áp đặt thêm những vấn đề Singapore. Từ “phát triển” đặt tên cho vòng đàm phán chỉ là bánh vẽ. Phản ứng của phía Nam: nó hình thành một mặt trận kết hợp các nhóm G 20, G 33 và G 90, mà lợi ích không nhất thiết trùng hợp, và lần đầu tiền các nước đang phát triển có được tiếng nói thống nhất trong cuộc đối đầu với các nước phát triển.[16] Lập trường chung của các nước phía Nam: từ chối giảm thuế quan và mở cửa những thị trường hàng công nghiệp và dịch vụ, ngày nào mà Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu chưa từ bỏ chính sách phá giá hàng nông nghiệp và chưa mở cửa thị trường nông sản của họ. Liên minh của các nước đang phát triển, thực hiện ở Cancun, có ý nghĩa lịch sử, bởi nó chấm dứt thế bá chủ của Bộ tứ trong WTO. Một thời kỳ dài, hơn nửa thế kỷ, đã kết thúc – thời kỳ mà các nước phát triển, liên minh với nhau, có thể áp đặt lên phần còn lại của thế giới những thoả thuận về mậu dịch quốc tế.[17]

Tại hội nghị WTO tiếp theo, họp tại Hồng Kông năm 2005, cuộc giằng co Bắc-Nam kéo dài, làm tê liệt mọi cuộc thương lượng, cho dù các nước phát triển rút hầu hết những vấn đề Singapore ra khỏi chương trình nghị sự. Quan điển của của các nước phía Nam là “thà không có thoả thuận, còn hơn là một thoả thuận tồi tệ”. Theo lịch trình dự kiến, vòng Doha sẽ kết thúc tại hội nghị WTO tháng 12 năm nay. Cuộc bầu cử cận kề của tổng thống Hoa Kỳ, cũng như lập trường của nước Pháp quyết bảo vệ đến cùng chính sách nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu, khiến cho các nhà quan sát tiên đoán là sẽ không có gì động đậy từ đây đến cuối năm. Sau cái chết trong trứng nước của vòng Thiên niên kỷ, cái thảm bại được báo trước của vòng Doha đưa WTO vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, đặt lại vấn đề “tính chính đáng” và sự tồn tại của nó, chí ít dưới hình thái hiện nay.[18] Đối với Stiglitz, thế giới cần có một WTO theo kiểu khác để trả lời thách thức chân chính của vòng Doha: tổ chức thương mại thế giới như thế nào để nó phục vụ mục tiêu phát triển của các nước nghèo, chứ không phải chỉ là sân chơi ưu đãi các nước giàu.[19]

II. Hệ tư tưởng WTO

Với chức năng làm diễn đàn đàm phán các vấn đề thương mại đa phương, WTO thường nhấn mạnh rằng nó không dựa vào một chủ thuyết nào, cho dù là tự do hay bảo hộ mậu dịch. Trái với cái người ta có thể nghĩ, văn bản của hiệp định sáng lập WTO không có điều nào quy chiếu vào chủ thuyết tự do trao đổi cả. Ngược lại, có thể nhận định rằng quan niệm tổ chức thương mai đa phương, từ GATT cho đến WTO, khá xa lạ với tư tưởng cổ điển và tân cổ điển về mậu dịch quốc tế, và tương đối gần với tư tưởng Keynes, thậm chí với tư tưởng trọng thương (mercantilism).[20]

Trước tiên, cho rằng lợi ích của một nước tham gia ngoại thương là phát triển xuất khẩu, và hạn chế hàng nhập khẩu từ những nước cạnh tranh bất chính, là một cách đặt vấn đề thuần tuý trọng thương. Bởi, theo thuyết cổ điển và tân cổ điển thuần tuý, lợi ích của một nước xúc tiến tự do trao đổi không ở chỗ xuất khẩu mà ở chỗ nhập khẩu: đó là lợi ích mà ta có được khi mua một mặt hàng nước ngoài có giá thấp hơn món hàng đó nếu ta sản xuất nó ở trong nước. Cho nên, khác với tinh thần đàm phán của GATT và WTO, chủ thuyết chính thống về tự do trao đổi không hề đặt vấn đề có đi, có lại hay trả đũa nước đối tác khi nó bảo hộ thị trường của nó. Một nước bao giờ cũng có lợi khi quyết định loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan của nó, bất luận các nước khác chọn lựa làm gì. Tinh thần của tự do trao đổi, đúng ra, là “tự do trao đổi đơn phương”.[21]

Mặt khác, theo thuyết cổ điển và tân cổ điển, tự do trao đổi – ở cấp độ một nước cũng như ở cấp độ thế giới – không cần một cơ chế tập trung có chủ đích điều tiết nó, bởi vì bản thân thị trường có khả năng tự điều tiết. Còn cho rằng hệ thống mậu dịch thế giới phải được tổ chức với những quy tắc đa phưong được định chế hoá là một quan niệm bắt nguồn từ chủ thuyết Keynes. Cũng cần nhắc rằng đề án đầu tiên tổ chức hệ thống thượng mại quốc tế là sáng kiến của Keynes năm 1942. Về sau, một phần kế hoạch của ông về Tổ chức thương mại quốc tế (International Trade Organisation [ITO]) – gắn liền ban đầu với dự án ngân hàng trung ương thế giới, phát hành tiền tệ quốc tế bancor (International Clearing Union) – được tiến hành trong khuôn khổ của Liên hiệp quốc và đưa đến ký kết Hiệp ước La Havana 1948: Thượng viện Hoa Kỳ không phê chuẩn nó, cho nên chỉ có chương 4 của hiệp ước này được đưa vào thực hiện dưới tên GATT, mà WTO là tổ chức thừa kế.[22]

Song giữa đề án ITO và WTO khoảng cách khá xa vời.[23] So với thời kỳ thế chiến thứ hai kết thúc, cục diện thế giới vào đầu những năm 90 đã thay đổi hoàn toàn: Liên Xô và hệ thống mang tên “xã hội chủ nghĩa” biến mất, chủ nghĩa tư bản toàn thắng, thế giới song cực không còn, các nước gọi là “thế giới thứ ba” phải một mình đối đầu với các nước tư bản phát triển. Trong những điều kiện đó, các nước này đã áp đặt quan điểm “tân tự do”, mà biểu tượng là Đồng thuận Washington (giữa ba định chế: Bộ tài chính Hoa Kỳ, IFM, WB). Biểu hiện điển hình ở WTO là những hiệp định TRIPs về thương mại hoá quyền sở hữu trí tuệ và GATS về thương mại hoá dịch vụ, đặc biệt là những dịch vụ công (giáo dục, ý tế, điện, nước, bưu điện, đường sắt…). Và tuy không hề khớp với quan niệm và thực tiễn của WTO, hệ tư tưởng tự do trao đổi chế ngự các vòng đàm phán từ đó.

Stiglitz cho rằng những người cổ vũ cho tự do trao đổi, ở WTO và các định chế quốc tế khác, vận dụng thổ thiển một kết luận của học thuyết cổ điển và tân cổ điển về mậu dịch quốc tế, theo đó “tự do hoá thương mại mang phúc lợi đến cho mọi nước”. Điều mà họ lờ đi là kết luận này của Ricardo trong thuyết về lợi thế so sánh, được công thức hoá sau đó vơí mô hình Hecksher – Ohlin – Samuelson, tuỳ thuộc vào nhiều giả định, trong đó Stiglitz nhấn mạnh đến giả thuyết về thị trường cạnh tranh hoàn hảo, mà đặc điểm là không có thất nghiệp và không có bất trắc.

* Học thuyết Ricardo về trao đổi quốc tế giả định rằng các nước đều ở trong trạng thái toàn dụng lao động trước khi mở cửa mua bán với nước ngoài. Lúc mở cửa và chuyên môn hoá theo lợi thế so sánh, mỗi nước phân phối lại lao động, chuyển lực lượng lao động từ một ngành có năng suất tương đối thấp sang một ngành có năng suất cao hơn, và sự gia tăng hiệu quả sử dụng lao động này tạo phúc lợi thêm cho các nước. Trong trường hợp một nước ở vào trạng thái khiếm dụng lao động – và đó là hoàn cảnh phổ biến ở các nước đang phát triển – lợi ích của nó có phải là chuyên môn hoá và dẹp bỏ ngành sản xuất không có lợi thế so sánh, trong khi thất nghiệp còn đầy dẫy? Hay là nước đang phát triển nên khai thác thương mại quốc tế để giảm thất nghiệp, phát triển ngành có lợi thế so sánh đồng thời duy trì ngành không có lợi thế đó?[24] Đối với Stiglitz, Ricardo và những người theo ông không giải đáp về mặt lý luận một vấn đề chốt: “hiệu ứng của tự do hoá thương mại trong những nền kinh tế không sử dụng hết những nguồn tài nguyên” – trước tiên là lao động [Stiglitz 2005, tr. 57].

* Nối tiếp Ricardo, học thuyết tân cổ điển xây dựng mô hình tự do trao đổi trong khung lý luận về thị trường cạnh tranh hoàn hảo mà giả định cơ bản là không có bất trắc; còn nếu có bất trắc, thì phải có những thị trường rủi ro hoàn hảo. Stiglitz cho đó là “thế giới huyền thoại”, bởi những bắt trắc không thể quy thành xác suất là bản chất của nền kinh tế thị trường. Thị trường bảo hiểm hoàn hảo không hề hiện hữu tại các nền kinh tế thị trường phát triển, huống chi là ở những nền kinh tế thị trường đang phát triển. Hơn thế, hiệu ứng trực tiếp rõ nhất của tự do hoá thương mại quốc tế là tăng tính bất ổn định kinh tế và tính bất an xã hội: nó giải thích vì sao bao nhiêu người phản kháng WTO ở mọi nơi trên thế giới. Stiglitz đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề lao động: ở các nước tư bản phát triển, người lao động không thể mua bảo hiểm để đối phó với rủi ro mất việc làm, song cuộc đấu tranh của phong trào công nhân đã đưa đến một chế độ bảo hộ xã hội bù đắp đôi phần những mất mát của người thất nghiệp; còn tại các nước đang phát triển, nhà nước không có phương tiện và người thất nghiệp phải tự xoay xở lấy. Trong những điều kiện kinh tế đầy bất trắc, có thể chứng minh rằng “tự do trao đổi đưa mỗi cá nhân đến một trang thái tồi tệ hơn, theo tiểu chuẩn Pareto, so với khi còn tự cung, tự cấp” [Stiglitz 2005, tr.58].

Sử dụng phương pháp kinh trắc học, các nhà kinh tế đã thử xác minh mối liên hệ tích cực giữa tự do thương mại và tăng trưởng kinh tế, nhằm chứng dẫn rằng “các nước tự do hoá thương mại càng nhiều thì tăng trương kinh tế càng cao”. Khi tổng kết những công trình nghiên cứu này, hầu hết các nhà kinh tế công nhận rằng kết quả không có xác chứng. Bởi đó là một mối liên hệ phức tạp, hiệu ứng của tự do hoá thương mại trên tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác. Và nếu các công trình thống kê đã chứng minh được tầm quan trọng của những nhân tố như giáo dục, y tế, định chế, địa lý…, vai trò của tự do hoá mậu dịch quốc tế vẫn là điều tranh cãi và, theo Stiglitz, “hầu như chắc chắn rằng nó không phải là nhân tố quan trọng nhất”. Song, ở chiều ngược lại, các nghiên cứu nói trên cũng không xác minh mối liện hệ giữa bảo hộ mậu dịch và tăng trưởng kinh tế. Kinh trắc học không mang đến những trả lời rõ ràng cho các vấn đề nêu lên – ngoài việc loại trừ lập trường cực đoan ở hai phía, tự do hoá thương mại hoàn hảo và tự cung tự cấp tuyệt đối. [Stiglitz 2005, tr. 66-69].

Xét về mặt lịch sử kinh tế, không có nước giàu hiện nay nào đã công nghiệp hoá bằng con đường tự do hoá mậu dịch – từ Anh, Mỹ cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc. Tất cả đã phát triển với những chính sách mà hiện nay họ ngăn cản các nước nghèo sử dụng để phát triển: bảo hộ ngành công ghiệp non trẻ, trợ giúp xuất khẩu, kiểm soát đầu tư nước ngoài, giới hạn quyền sở hữu trí tuệ.[25] Như cách nói hình tượng của Chang Ha-Joon: “Không khác nào là các nước phát triển, khi đạt tới đỉnh, đá hất đi cái thang mà họ đã leo lên, để các nước khác không thể trèo theo”.[26] Nhắc lại “quá khứ bảo hộ chủ nghĩa” của các nước phát triển, tất nhiên, không có nghĩa là các chính sách thương mại đề ra mang tính tối ưu và nhà nước vận dụng chúng không có khiếm khuyết. Nhưng, chí ít, nó cho thấy con đường phát triển lịch sử không ăn nhập gì với lý luận tân cổ điển. Stiglitz quan tâm đến hai ví dụ hiện nay:

– Trung Quốc, nước hội nhập thành công vào hệ thống thương mại quốc tế với chiến lược riêng, không theo chỉ dẫn của Đồng thuận Washington. Trong chiến lược phát triển của Bắc Kinh, “tự do hoá thương mại không hề là nguyên nhân của tăng trưởng”: nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng nhanh vào cuối thập niên năm 70; tự do hoá thương mại khởi đầu vào cuối thập niên 80 và chỉ thật sự vận động trong thập niên 90, tức là sau khi tăng trưởng kinh tế đã tăng tốc mạnh [Stiglitz 2005, tr. 73].[27]

– Mêhicô, nước tham gia Hiệp định tự do trao đổi Bắc Mỹ (North American Free Trade Agreement [NAFTA]) năm 1994. Mười năm sau, nền kinh tế Mêhicô tăng trưởng thấp hơn những thập niên trước (giai đoạn 1948-1973), tiền lưong bình quân thực tế giảm, đói nghèo tăng; khu vực tăng trưởng cao nhất, là công nghiệp, mất một phần ba số việc làm so những năm đầu của hiệp định. Theo Stiglitz, hai bài học có thể được rút ra từ kinh nghiệm này: (1) “Tự do hoá thương mại, tự nó, không đảm bảo tăng trưởng kinh tế”; hiệu ứng của nó có thể bị những nhân tố khác vô hiệu hoá. (2) “NAFTA, thực ra, không hề là một hiệp định trao đổi tự do”; trong nông nghiệp, vận dụng chế độ trợ cấp, Hoa Kỳ xuất nông sản (như bắp) với mức giá thấp hơn giá của thị trường nội địa Mêhicô; đồng thời, vận dụng các biện pháp phi-mậu dịch, Hoa Kỳ ngăn chận nông sản (như cà chua) nhập từ Mêhicô [Stiglitz 2005, tr. 54-55].[28]

Stiglitz cho rằng các nhà kinh tế đã học hỏi nhiều điều về quá trình phát triển kinh tế, song còn nhiều điều họ chưa hiểu biết. Bởi mối liên hệ giữa thương mại và tăng trưởng vẫn là một vấn đề mở, họ “nên để cho các nước đang phát triển tự do xây dựng chiến lược riêng tuỳ theo hoàn cảnh riêng của mỗi nước” [Stiglitz 2005, tr. 47]. WTO không nên hạn chế chủ quyền các nước phía Nam chọn lựa con đường phát triển của họ. Trong hướng đó, WTO cần trước hết đáp ứng yêu cầu lâu nay và cấp thiết của phía Nam và xã hội dân sự thế giới: tổng kết một cách chi tiết và rõ ràng kết quả thực hiện các hiệp định vòng Uruguay – đặc biệt là hiệu ứng đối với các nước đang phát triển –, trước khi bàn tới một vòng đàm phán mới (hiệp định thành lập WTO hứa tiến hành tổng kết đó trễ nhất vào năm 1999). Điều khẩn trương hiện nay không phải là tự do hoá thương mại, mà là làm rõ sự thật về công cuộc tự do hoá trong mười hai năm qua.

III. Sân chơi và luật chơi WTO

Đối với các nước phía Nam, WTO thường giới thiệu nó như là một hệ thống đa phương vận động theo quy tắc pháp chế, chứ không phải theo tương quan về quyền lực. Nó giảm bớt tính bất bình đẳng giữa nước nghèo và nước giàu trong các thương lượng song phương: “Thiếu một cơ chế đa phương như WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của họ cho các nước yếu hơn”.[29] Lập luận rằng không nước nào bị buộc phải vào khuôn khổ pháp quyền này và nước nào cũng có quyền đi ra nếu thấy không có lợi, WTO nhận xét: chưa thấy nước nào sử dùng quyền đó, chỉ thấy các nước chen chân xin gia nhập. Đúng vậy, nhưng đỡ tệ không có nghĩa là tốt.

Vả lại, Stiglitz, cũng như phần lớn phong trào toàn cầu hoá theo cách khác, không chủ trương dẹp bỏ WTO mà đặt vấn đề cải cách nó như thế nào mà các nước nghèo có được điều kiện để phát triển. Cơ chế bình đẳng về pháp quyền không thể che lấp sự thống trị của các nước tư bản phát triển. Cho nên, vượt lên tính bình đẳng hình thức, Stiglitz nêu lên vấn đề “công bằng”, mà ông hiểu theo tiêu chuẩn của J. Rawls[30] và định nghĩa như sau: “Mọi thoả thuận gây hại nhiều hơn cho các nước đang phát triển, hoặc mang lợi nhiều hơn cho các nước phát triển (thu hoạch ròng của một nước được tính theo phần trăm tổng sản phẩm trong nước [GDP] của nó) phải được xem là phi công bằng” [Stiglitz 2005, tr. 114]. Một chủ trương được coi là công bằng khi nó mang đến cho nước nghèo một phần lợi, theo tỷ lệ, lớn hơn phần của nước giàu. Cho đến nay, các nước phát triển đã hưởng phần lớn những lợi ích do các hiệp định thương mại tạo nên, sự công bằng đòi hỏi bây giờ họ đóng góp nhiều hơn cho các nước đang phát triển. Nói cách khác, tinh thần thương lượng mậu dịch giữa nước phát triển và nước đang phát triển không thể là “có đi, có lại” hoàn toàn.

Vấn đề đã từng được nêu lên trong phần IV của Hiệp định GATT (“Thương mại và phát triển”) theo đó các nước phát triển “không được đòi hỏi có đi có lại” trong đàm phán thương mại với các nước đang phát triển.[31] Trong hiệp định thành lập WTO, nguyên tắc được nhắc lại qua khái niệm “Đối xử đặc biệt và khác biệt” [SDT]. Và khi đặt trọng tâm vòng đàm phán vào “phát triển”, tuyên bố Doha năm 2001 đương nhiên phân biệt nước nghèo với nước giàu với tinh thần nước giàu phải đối xử ưu đãi với nước nghèo: điều 44 của bản tuyến bố xác định rằng “những quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt nằm trong các hiệp định WTO” và sẽ được vòng đàm phán xem xét lại “nhằm củng cố chúng, làm cho chúng rõ ràng hơn, hiệu quả hơn và mang tính tác chiến nhiều hơn”.[32] Tất nhiên, đó chỉ là diễn từ và SDT đã nhanh chóng biến mất khỏi chương trình nghị sự. Cải cách WTO theo kiểu khác chính là nhằm biến lời cam kết nói trên thành hiện thực có hệ thống của quan hệ Nam – Bắc.

Với mục đich đó, Stiglitz xem xét lại sân chơi và các luật chơi của WTO. Không công bằng bắt đầu tự chỗ chọn sân chơi: quyết định sân chơi là các nước phát triển, do họ làm chủ chương trình nghị sự các hội nghị (chí ít cho đến Cancun). Nhờ đó, các cuộc đàm phán cho đến nay tập trung vào những lĩnh vực mà các nước phát triển quan tâm, thay vì những vấn đề trọng tâm của các nước đang phát triển. Vì sao WTO bàn nhiều về lưu thông vốn và có hiệp định TRIMs bảo vệ đầu tư nước ngoài (lợi thế của các nước phát triển), mà hầu như không nói đến lưu thông lao động và không có hiệp định tương đương bảo về người lao động nhập cư (lợi thế của nước đang phát triển)? Và khi hiệp định GATS về thương mại hoá dịch vụ đề cập đến xuất khẩu lao động, vì sao WTO chỉ quan tâm đến việc đi lại của người lao động chuyên môn cao (lợi thế của các nước phát triển), và loại ra khỏi chưong trình nghị sự vấn đề đi lại của người lao động không chuyên môn (lợi thế của các nước đang phát triển)? Chương trình nghị sự của một vòng đàm phán thực sự chú tâm vào phát trển sẽ rất khác Doha hiện nay. Trước hết, nó sẽ thu gọn các lĩnh vực đưa ra đàm phán, bởi các nước đang phát triển không có phương tiện để thương lượng hữu hiệu trên quá nhiều hồ sơ cùng lúc. Mặt khác, nó sẽ loại bỏ những lĩnh vực không phải trọng tâm của các nước đang phát triển như: các vấn đề Singapore, những vấn đề đầu tư quốc tế và tự do hoá thị trương vốn, vấn đề quyền sở hữu trí tuệ… Vả lại, theo Stiglitz, các hiệp định TRIMs (đầu tư), TRIPs (sở hữu trí tuệ) và GATS (dịch vụ) cần được thương lượng lại, bởi chúng gồm nhiều điều thiệt thòi cho các nước đang phát triển. [33]

Không ít luật chơi WTO mang tính phi công bằng rõ rệt. Hãy xét, với Stiglitz, vài trường họp liên quan đến thủ tục đàm phán, biện pháp bảo vệ và điều kiện gia nhập.

– Lấy lý do rằng không thể tổ chức đàm phán cùng lúc với hàng trăm nước, WTO đã đặt ra thủ tục gọi là “phòng xanh” cho phép Bộ tứ tổ chức thương lượng riêng và trực tiếp với một số nước phía Nam mà họ chọn: bị “nhốt” suốt đêm với đại diện Bộ tứ trong phòng đàm phán (thường màu xanh lá cây) của WTO, bộ trưởng thương mại của nước “được” chọn buộc phải đi họp một mình, các chuyên gia cố vấn không được tham dự.[34] Tuy, hiện nay, thủ tục này chính thức không còn, thực tiễn thương lượng không công khai và dưới sức ép vẫn tiếp tục, mục đích là tách nước phía Nam này ra khỏi những nước khác. Ngoài ra, thế yếu trong đàm phán của các nước đang phát triển xuất phát cơ bản từ trạng thái “thông tin không cân xứng” giữa các nước phía Bắc và phía Nam. Tại trụ sở Genève của WTO, Hoa Kỳ có một đoàn đại diện thường trực gồm 150 cán bộ, trong khi hơn ba mươi nước phía Nam không có được một đại diện thường trực; và tại hội nghị Cancun, đối mặt với 500 đại biểu Hoa Kỳ, hầu hết các nước phía Nam không có khả năng huy động nhân sự, hiểu biết và tài chính cần thiết để vào cuộc chơi trên thế bình đẳng. Muốn khắc phục phần nào quan hệ phi cân xứng đó, WTO – theo Stiglitz – cần tạo ra trước hết một cơ quan có nhiệm vụ đánh giá khách quan tác động trên các nước của mỗi đề nghị đưa ra thảo luận giữa các nước phía Bắc và phía Nam.

– Những nước hô hào tự do trao đổi mạnh nhất cũng là những nước biết vận dụng chế độ bảo hộ một cách hệ thống nhất, căn cứ vào quyền bảo vệ mậu dịch mà WTO công nhận, chống lại cạnh tranh không chính đáng: quyền tự vệ, quyền chống trợ cấp, quyền chống phá giá. Song, các biện pháp nhằm bảo đảm mậu dịch công bằng thường biến dạng để phục vụ thương mại phi công bằng, và chận đứng những mặt hàng có tính cạnh tranh của phía Nam đã chiếm được thị phần ở phía Bắc: khi sản phẩm của một nước đang phát triển xâm nhập thành công thị trường Hoa Kỳ hay Liên hiệp châu Âu, biện pháp chống phá giá, hay một chướng ngại phi thuế quan khác, lập tức đánh vào nó. Stiglitz nhắc lại vụ cá ba sa của Việt Nam: Vào những năm 90, Việt Nam đã xâm nhập thị trường cat-fish Hoa Kỳ, thị phần lên đến 20%. Thượng viện Mỹ ra đạo luật quy định rằng chỉ có cat-fish của Mỹ mới được bán dưới tên gọi “cat-fish”. Một cách khá thông minh, Việt Nam trở lại thị trường Mỹ với tên cá mới là “ba sa”, và hình ảnh của một sản phẩm chất lượng cao, bán với giá cũng cao hơn, đánh bại catfish của Mississipi. Cùng đường, Hoa Kỳ rút ra vũ khí chống phá giá, tố cáo Việt Nam xuất khẩu cá dưới giá thành của nó. Điều quyết định ở đây là đưa ra chứng cứ theo đó chi phí sản xuất hàng cao hơn giá xuất khẩu của nó sang Mỹ: lấy cớ rằng kinh tế Việt Nam, Trung Quốc và Đông Âu cựu xã hội chủ nghĩa chưa phải là những nền “kinh tế thị trường,” Hoa Kỳ từ chối căn cứ vào chí phí sản xuất nội địa, và lấy chi phí sản xuất của “một nước thay thế” làm chuẩn (trong hồ sơ chống phá giá đối với túi kéo đựng gậy golf nhập khẩu từ Ba Lan, họ đã chọn Canada làm chuẩn, trong khi giá cả ở nước này cao đến mức mà nó không có khả năng sản xuất loại túi kéo đó). Stiglitz vạch rõ cách xử lý khác nhau của luật pháp chống phá giá Hoa Kỳ đối với nội thương và ngoại thương: nếu lấy chuẩn tắc xét xử hàng nội hoá mà áp dụng cho hàng nhập khẩu thì Mỹ sẽ bị xử phạt trong hầu hết các vụ kiện nước ngoài phá giá; và nếu mang chuẩn tắc, mà Hoa Kỳ dùng trong ngoại thương, để xét các vụ kiện nội thương thì phần lớn các hãng ở Mỹ sẽ bị kết án là phá giá. Với kinh nghiệm làm việc trong chính quyền Clinton, Stiglitz không ngần ngại cho rằng: “Chúng ta [người Mỹ] vừa là biện lý buộc tội, vừa là thẩm phán xét xử, vừa là ban hội thẩm, và quy tắc về chứng cứ của chúng ta sẽ làm cho ‘người phân xử’ trong một ‘tòa án’ của mafia phải xấu hổ đỏ mặt”. Đề xuất của ông là phải giao các vụ kiện chống phá giá cho một toà án quốc tế: để cho toà án của chính nước phát đơn kiện xét xử là điều không thể chấp nhận trong thế giới cai quản theo pháp chế [Stiglitz 2006, tr. 144-145].

– Tự hào là một tổ chức căn cứ trên những quy tắc chung, WTO lại không có tiêu chuẩn khách quan và thủ tục rõ ràng để kết nạp thành viên. Khuyết điểm này tạo cơ hội cho các nước phía Bắc áp đặt thêm những điều kiện gia nhập mà các nước đã là thành viên không phải tôn trọng, gọi là “WTO-cộng”. Riêng Hoa Kỳ thường áp đặt trong các hiệp định song phương những điều kiện không có ở WTO, rồi biến chúng thành những điều kiện gia nhập WTO. Như trong hiệp định mậu dịch Viêt-Mỹ, Việt Nam đã chấp nhận những cam kết về quyền sở hữu trí tuệ cao hơn những điều trong hiệp định TRIPs, gọi là “TRIPs-cộng”: khi Việt Nam được kết nạp vào WTO, cam kết này trở thành một ràng buộc cho các nước sẽ vào sau. Còn trong hiệp định đầu tư Việt-Nhật, ta chấp nhận từ bỏ những điều kiện buộc nhà đầu tư nước Nhật phải xuất khẩu 50% sản phẩm và mang vào những công nghệ mới nhất (điều khoản này sẽ tự động chuyển thành cam kết của Việt Nam với mọi nước khác chứ không chỉ dành riêng cho Nhật Bản).[35] Gia nhập WTO, Việt Nam đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ ngay mọi trợ cấp trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên khác đến năm 2013 mới cắt giảm); từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp (các nước thành viên khác vẫn giữ quyền đó). Vào WTO, Trung Quốc đã phải chấp nhận: giảm thuế quan trên nông sản ở dưới mức mà các thành viên khác có cam kết; quyền của các nước khác áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng mà Trung Quốc xuất khẩu. Thuộc nhóm các nước kém phát triển nhất (Least-developed countries [LLDCs]), Campuchia cũng phải chấp nhận: từ bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản (Hiệp định về nông nghiệp AoA quy định đó là quyền của các LLDCs); áp dụng hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ TRIPs trong thời hạn ba năm (Tuyên bố Doha quy định các thành viên LLDCs được thời hạn đến năm 2016); có cam kết về dịch vụ nghe nhìn và dịch vụ phát hành trong hiệp định GATS (không một nước đang phát triển nào có cam kết trong lĩnh vực này cả). Cũng phải nói phạm trù phân biệt đối xử “kinh tế thị trường / phi thị trường”, không có trong các văn kiện WTO, mà Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu tự đặt ra để vận dụng một cách tuỳ tiện trong các vụ kiện Việt Nam hay Trung Quốc bán phá giá (thay vì so sánh giá xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ với giá bán ở Việt Nam, Hoa Kỳ dùng giá bán ở một nước khác, miễn là có lợi cho nó).

Đối với Stiglitz, một WTO theo kiểu khác là một WTO hạn chế đàm phán vào các vấn đề liên quan đến thương mại và góp phần vào phát triển: tất cả những gì có hiệu ứng tiêu cực trên các nước đang phát triển phải bị loại ra khỏi chường trình nghị sự. Ông đề xuất một quan điểm mở cửa thị trưởng một cách công bằng hơn, theo đó mỗi thành viên WTO sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường của mình cho những hàng hoá đến từ các nước nghèo hơn và nhỏ hơn”. Nói cách khác, “các nước đang phát triển sẽ xuất khẩu tự do vào thị trường của các nước có GDP cao hơn và GDP/người cao hơn”. Trong điều kiện đó, các nước nghèo nhất và nhỏ nhất sẽ có được thu hoạch quan trọng nhất, và các nước giàu nhất và lớn nhất sẽ phải tự do hoá thương mại nhiều hơn cả. [Stiglitz 2005, tr. 135 và150-151]

Thay lời kết luận

1. Hai tác phẩm năm 2005 và 2006 của Stiglitz không phải là những văn bản lý luận, mà nhắm đến công chúng rộng rãi. Cho nên có thể và đã có những phê phán trên bình diện học thuật, khi Stiglitz sử dụng thống kê đôi lúc thiếu chính xác; hay lúc ông đưa ra lập luận đôi khi thiếu chặt chẽ. Song điều quan trọng, ở đây, là cách đặt vấn đề của Stiglitz có xác đáng hay không? Cải cách WTO cho nó “công bằng” hơn, nhằm tạo điều kiện để các nước nghèo phát triển, thay vì chỉ làm sân chơi ưu đãi của các nước giàu – theo tôi – là một cách đặt vấn đề vừa xác đáng, vừa chính đáng. Tất nhiên, tương quan về quyền lực trên thế giới hiện nay, tuy có chuyển biến từ Cancun, chỉ cho phép tiến từng bước. Đó là mục tiêu đấu tranh mà Stiglitz đề nghị không riêng cho các nước phía Nam. Ông nhắm trước hết dư luận sáng suốt ở các nước phía Bắc: bởi cái mà những nước tư bản phát triển đã làm sau thế chiến thứ hai – điều tiết nền kinh tế thị trường với những định chế chính trị – xã hội trong khuôn khổ của mỗi nước , tại sao họ không thể xây dựng trong khuôn khổ toàn cầu với những định chế chính trị – xã hội quốc tế thích ứng?

Hai tác phẩm của Stiglitz còn chứa đựng một chủ đề quan trọng khác mà bài viết này không đề cập ở đây: đó là mối liên hệ giữa tự do hoá thương mại và tăng trưởng kinh tế với bất bình đẳng xã hội và đói nghèo. Trong cuộc chơi WTO, có nước thắng cuộc và nước thua cuộc, nhưng không chỉ thế: ở các nước nhìn tổng thể là thắng cuộc, có người “được” và người “mất”; và ở các nước nhìn tổng thế là thua cuộc, cũng có người “mất”và người “được”. Nói chung, tự do hoá thương mại gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Sau khi giảm nhiều trong giai đoạn tăng trưởng ban đầu, đói nghèo ở một số nước đang phát triển – như Việt Nam và Trung Quốc – phải chăng sẽ ngừng giảm, hay thậm chí tăng trở lại? Đó là một đề tài nên khảo sát ở một lần hội thảo hè tiếp theo.

2. Riêng đối với Việt Nam, cách đặt vấn đề của Stiglitz về WTO không đối lập với cách đặt vấn đề hiện nay của đảng cầm quyền. Chúng bổ sung cho nhau. Vấn đề của Việt Nam không chỉ là thực thi những cam kết mà ta đã thoả thuận; đó không chỉ là tôn trọng các luật chơi mà ta đã công nhận. Vấn đề của Việt Nam còn là đấu tranh cải cách sân chơi WTO cho nó bình đẳng hơn; đó còn là thay đổi luật chơi để WTO công bằng hơn đối với các nước đang phát triển.

Đặt vấn đề này ra, chí ít, có một hệ luận. Trước hết, đàm phán WTO không chỉ là vấn đề của nhà nước, mà còn là vấn đề của xã hội dân sự Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh cải cách WTO, nhà nước có những ràng buộc của nó, cho nên cần một xã hội dân sự để thúc đẩy nó; cần những tổ chức phi chính phủ có tính phản biện cao. Đó là điều kiện để đảm bảo thành công tại WTO. Và, trước mắt, điều có thể tiến hành ngay là cung cấp cho dư luận bản dịch tiếng Việt của hai bộ sách Stiglitz.

Đồng thời, Việt Nam phải hội nhập vào xã hội dân sự thế giới. Trong một bài bình luận đăng trên VietNamNet ngày 27.1 2007 và phản ảnh quan điểm của chính phủ, người ta có thể đọc rằng Việt Nam đứng trước chọn lựa giữa Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum), họp hàng năm tại Davos (Thụy Sĩ), và Diễn đàn xã hội thế giới (World Social Forum), lúc ấy họp tại Nairobi (Kenya), là tập họp của các tổ chức phi chính phủ chủ trương toàn cầu hoá theo cách khác. Cũng theo bài đó, sự kiện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi đến Davos đã nói lên rõ ràng chọn lựa của Việt Nam. Nhưng tại sao phải chọn lựa? Ai buộc Việt Nam phải chọn lựa? Ngay nhiều nước tư bản phát triển có đại diện của chính phủ tại hai diễn đàn, Việt Nam tại sao không thể làm điều đó? Huống chi là kinh nghiệm, chí ít từ Seattle, cho thấy rằng nếu không có sức ép và cuộc vận động của xã hội dân sự thế giới, khó lòng WTO bước vào con đường cải cách vì công bằng.[36]

Bởi vì, nói cho cùng, WTO là gì, nếu không phải là cái mà các thành viên của nó tạo ra? WTO là cái mà các nhà nước và xã hội dân sự những nước thành viên của nó làm nên.

Tháng 7 2007

Chú thích

[1] Theo cách nói của bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển (VietNamNet, 4.1 2007)

[2] Bài viết của Phan Minh Ngọc, khoa kinh tế, trường đại hoc Kyushu, Nhật Bản (Thời báo kinh tế Sài Gòn, 24.8 2006)

[3] Bài viết của Lê Đăng Doanh, chuyên viên cao cấp bộ kế hoạch và đầu tư (Thời báo kinh tế Sài Gòn, 31.8 2006)

[4] J. Stiglitz, Fair trade for all. How trade can promote development, (viết cùng với Andrew Charlton), Oxford University Press 2005; bản dịch tiếng Pháp: Pour un commerce mondial plus juste, Fayard 2007. J. Stiglitz, Making globalization work, W.W. Norton 2006; bản dịch tiếng Pháp: Un autre monde. Contre le fanatisme du marché, Fayard 2006. Các chỉ dẫn về trang trong bài viết là của bản dịch tiếng Pháp.

[5] Trong Wither socialism? [1996], Stiglitz vận dụng kinh tế học thông tin để phân tích sự thất bại của mô hình về chủ nghĩa xã hội áp dụng vào các nước Đông Âu. Đồng thời ông cũng phê phán sai lầm của mô hình tân cổ điển về cạnh tranh thị trường sử dụng để nghiên cứu chủ nghĩa tư bản. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quang A, Chủ nghĩa xã hội đi về đâu (Tủ sách SOS², 2003). Xem:www.talawas.org

[6] Ở chiều ngược lại, bộ trưởng tài chính Larry Summers đánh giá Stiglitz là người “lạc hậu” đi theo Keynes, và tố cáo ông đã “làm chậm trễ quá trình bình ổn các nền kinh tế phía Nam” khi chống lại các nguyên tắc cổ điển về phi quy định hoá thị trường vốn và phi nhà nước hoá khu vực công.

[7] Stiglitz gắn liền “con đường thứ ba” với một số gương mặt lãnh đạo chính trị: Bill Clinton (đảng Dân chủ Mỹ), Tony Blair (Công đảng Anh), Gerhard Schroeder (đảng Dân chủ xã hội Đức).

[8] Năm 1999, bà Aileen Kwa, một trách nhiệm khác của Focus on global south, có khuyên Việt Nam đừng vào WTO, vì sẽ như “một đội bóng thiếu nhi 5 tuổi đấu với đội người lớn 20 tuổi”, chắc chắn sẽ thua.

[9] Gần với quan điểm của Stiglitz, có thể kể đến Susan George (Remettre l’OMC à sa place, Mille et une nuits, 2005) thuộc tổ chức phi chính phủ Attac (Pháp); hay Oxfam (Anh) là tổ chức có nhiều báo cáo quan ngại về những điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, như: ‘Tống tiền ở cửa vào’ (Extortion at the gate: Will Vietnam join the WTO on pro-development terms?, 2004) và ‘Hãy làm như tôi nói, chớ làm như tôi làm’ (Do as I say, not as I do: The unfair terms of Vietnam entry to WTO, 2005). Cũng có thể kể đến: UNDP, Các quy định thương mại tuỳ tiện. Chống phá giá và quy chế nền kinh tế thị trường áp đặt cho Việt Nam,http://www.undp.org.vn/undpLive/digitalAssets/6459_00612_-_antidumping_v_.pdf

[10] WTO, Mười điều thường hiểu sai về WTO, www.wto.dddn.com.vn

[11]Xem Mehdi Abbas, ‘L’agenda de l’Organisation mondiale du commerce et l’économie politique internationale’, Annuaire français des relations internationales, tháng 4 2002. Theo tác giả, bá quyền của Bộ tứ có tính định chế: các nước thuộc Bộ tứ “tạo ra thể chế” (regime makers) còn lại là những nước “chấp nhận thể chế” (regime takers) [tr. 735].

[12]Xem Đỗ Tuyết Khanh, ‘Ngành dệt may sau 2004: viễn tượng và thách thức’, Thời Đại Mới, số 2, tháng 7/2004. Cập nhật: Ngày 1.1 2005, chế độ hạn ngạch MFA chính thức chấm dứt thì chỉ vài tháng sau, lấy cớ “tự vệ”, Hoa Kỳ (một cách đơn phương) và Liên hiệp châu Âu (qua thương lượng) lập lại biện pháp hạn ngạch tạm thời đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Lý do nêu lên hoàn toàn không chính đáng: các mặt hàng dệt may của Trung Quốc tràn vào thị trường Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu không hề gây “thiệt hại nghiệm trọng cho các nhà sản xuất nội địa”, bởi từ lâu nay họ đã mất tính cạnh tranh và hầu như vắng mặt trên thị trường. Tác động chủ yếu của nhập khẩu từ Trung Quố tăng vọt là làm giảm lượng hàng dệt may mà Mỹ và châu Âu mua từ các nước đang phát triển khác (trong đó có Việt Nam) – tổng thể sản lượng nhập khẩu không xê xích bao nhiêu.

[13] Theo Stiglitz, hiệu ứng của những hiệp định WTO là gây cho các nước châu Phi phía Nam Sahara mất mát 1,2 tỷ USD/năm.

[14] Năm 2001, theo Stiglitz, hàng dệt may và giày dép, tuy chỉ chiếm có 6,5% kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ, đã phải trả gần phân nửa tổng thuế nhập khẩu do chính phủ Mỹ thu. Và, mặc dù giá trị giày dép nhập khẩu chỉ bằng một phần mười kim ngạch nhập xe ô-tô, chính phủ Mỹ đã thu trên giày dép nhiều thuế nhập khẩu hơn là trên xe ô-tô.

[15] WTO, Hội nghị bộ trưởng Doha 2001: Tuyên bố của các bộ trưởng, WT/MIN(01/DEC/1 2001.

[16]Nhóm Cairnes (hình thành từ năm 1986): gồm 17 nước xuất khẩu nông sản quan trọng thuộc thế giới phát triển (Canada, Australia, Tân Tây Lan…) và thế giới đang phát triển (châu Mỹ: Brasil, Argentina, Chi Lê…; châu Á: Thái Lan, Malaysia, Indonesia…; châu Phi: Nam Phi). Nó bảo vệ chủ trương tự do hoá các thị trường nông sản.

– Nhóm G20: gồm 19 nước đang phát triển, trong đó có các nước đang phát triển thuộc nhóm Cairnes và một số nước đang phát triển thuộc G33 (như Ấn Độ và Trung Quốc). Nó thực hiện sự nối kết giữa các nước đang phát triển của nhóm Cairnes và các nước đang phát triển khác.

– Nhóm G33: gồm 42 nước đang phát triển, trong đó có những nước của G20 không thuộc nhóm Cairnes và một số nước của G90. Nó bảo vệ quyền bảo hộ nông nghiệp của các nước đang phát triển.

– Nhóm G90: gồm 79 nước đang phát triển, trong đó có các nước kém phát triển nhất. Được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan của Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu, các nước này e ngại chủ trương giảm thuế quan của G20 làm họ mất ưu thế hiện có.

[17]Xu hướng hiện nay là hình thành mộ Bộ tứ “mới” gồm Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu, đại biểu cho các nước phát triển, Brasil và Ấn Độ, đại biểu cho các nước đang phát triển.

[18]Mehdi Abbas, ‘De Doha à Cancun: Eléments d’analyse de la crise du multilatéralisme commercial et de l’Organisation mondiale du commerce’, AFRI 2005, tr. 880.

[19]Trong hướng ngược lại, M. Abbas [tài liệu vừa dẫn, tr. 895-896] cho rằng WTO không kham nổi mục tiêu phục vụ phát triển. Vòng Doha đã thất bại và WTO bị tê liệt chính vì nhiệm vụ gán cho nó nằm ngoài năng lực của nó: “WTO không có gì để đề xuất trên bình diện phát triển cả”.

[20]J.M. Siroen, L’OMC et la mondialisation des économies, IRES và CFE-CGC, 1998.

[21]Jagdish Bhagwati, Protectionism, MIT Press, 1988; bản dịch tiếng Pháp, Protectionnisme, Dunod 1990, tr. 23-33.

[22] Susan George, ‘Une autre organisation du commerce était possible…’, Le Monde Diplomatique, tháng 1 2007. Xem thêm: Susan Ariel Aaronson, Trade and the American dream: A social history of postwar trade policy, UP Kentucky 1996.

[23]Khác biệt đáng chú ý nhất đối với WTO hiện nay là ITO gắn mậu dịch thế giới với những mục tiêu về phát triển, toàn dụng lao động, tiến bộ xã hội. Nó nhấn mạnh đến những phương tiện nhằm giảm thất nghiệp, cải thiện tiền lương, ấn định quy chuẩn lao động.

[24]Trong ví dụ cổ điển của Ricardo với 2 nước (Anh và Bồ Đào Nha) và hai sản phẩm (vải và rượu), Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối trong cả hai sản phẩm, song lợi thế so sánh là ngành rượu, cho nên, trong chuyên môn hoá quốc tế, Bồ đào Nha chỉ sản xuất rượu và Anh chỉ sản xuất vải. Nếu Bồ Đào Nha ở trong trạng thái thất nghiệp thì lợi ích của nó không phải là chuyển lực lượng lao động từ ngành vải sang ngành rượu, mà là sử dụng lao động thất nghiệp để sản xuất thêm cả rượu lẫn vải, và xuất khẩu hai sản phẩm qua Anh. Nếu nước Anh muốn duy trì công ăn việc làm, nó phải từ bỏ ngoại thương và trở về tự cung tự cấp.

[25]Kinh tế gia trưởng của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc [UNDP] ở Việt Nam, Jonathan Pincus, nhắc rằng: “Không có nước giàu nào trả tiền sở hữu trí tuệ khi họ bắt đầu công nghiệp hoá. Nhật Bản thì nhập khẩu và sao chép công nghệ của Đức. Hàn Quốc thì nhập và chép công nghệ của Nhật. Mỹ thì nổi tiếng là “cóp” ý tưởng của Anh khi mới lập quốc, và bây giờ họ muốn các nước đang công nghiệp hoá phải chi tiền. Điều đó sẽ vô cùng đắt và ngăn cản Việt Nam tiếp cận công nghệ. Nhưng Mỹ rất chú ý bảo vệ sở hữu trí tuệ vì những công ty lớn của họ đang kiếm lãi từ đó”. [VietNamNet 13.12 2004].

[26]Chang Ha-Joon, ‘Du protectionnisme au libre échangisme, une conversion opportuniste’, Le Monde Diplomatique, tháng 6 2002. Xem thêm: Kicking away the ladder. Development strategy in historical perspective, Anthem Press 2002.

[27]Trong chiều ngược lại, những tác giả ủng hộ chủ nghĩa tự do cho rằng các chính sách kinh tế của nhà nước Trung Quốc có hiệu ứng tiêu cực, và tăng trưởng của Trung Quốc sẽ cao hơn nếu nhà nước không có tiến hành những chính sách đó.

[28]Trong bài phỏng vấn nói trên [VietNamNet 13.12 2004], Pincus còn lên tiếng cảnh giác Việt Nam: “Vào WTO: Đừng để Việt Nam trở thành Mêhicô thứ hai”.

[29]WTO, Mười lợi ích của hệ thống thương mại WTO, www.wto.ddn.com .

[30]John Rawls, A theory of justice, Harvard Press University 1971. Trong một khung triết học khác, Amartya Sen đi đến những kết luận tương tự trong Development and freedom (Oxford University Press 1999).

[31]MUTRAP II, Tự điển chính sách thương mại quốc tế, MUTRAP 2006, tr. 252.

[32] WTO, Hội nghị Doha 2001: Tuyên bố các bộ trưởng, WT/MIN(01)/DEC/1 2001.

[33]J. Bhagwati cho rằng phải đưa vấn đề sở hữu trí tuệ ra khỏi các cuộc đàm phán về thưong mại. Ông cũng phê phán tự do hoá thị trường vốn và cho nó không nằm trong lý luận về tự do trao đổi. Xem Free trade to day (Princeton 2002); bản dịch tiếng Pháp (Eloge du libre-échange, Ed. Organisation 2005) có kèm theo bản dịch của bài ‘The capital myth: The difference between trade in widgets and dollars’, Foreign Affairs tháng 5-6 1988.

[34] Xem Thư ngỏ của 11 nước đang phát triển gửi cho Hội đồng WTO liên quan đến thục tục phòng xanh.

[35] Được hỏi về điều khoản này, Stiglitz khuyên Việt Nam “tìm cách sáng tạo để đặt lại những điều kiện đó với nhà đầu tư mà không vi phạm cam kết” (!). Xem bài phỏng vấn J. Pincus, VietNamNet 13.12 2004.

[36]Cũng trong hướng này, xem bài của F. Gendreau (chủ tịch Hội hữu nghị Pháp-Việt), ‘Le Vietnam, l’OMC et la mondialisation’,Courrier du Vietnam, 7.3 2004.

SOURCE: TẠP CHÍ THỜI ĐẠI MỚI SỐ 12, THÁNG 11/2007 – TRẦN HẢI HẠC – Đại học Paris XIII

Trích dẫn từ: http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_THHac.htm

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

———————————————————————-

Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn hoặc sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi: CÔNG TY LUẬT TNHH LVN GROUP

Điện thoại yêu cầu Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài, gọi: 1900.0191

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: [email protected]

DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:

1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;

2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;

3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;

4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;

5. Tư vấn thành lập công ty liên doanh tại Việt Nam;

6. Dịch vụ tư vấn Cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài;

3. Lựa chọn phát triển sau khi gia nhập WTO và trong điều kiện quốc tế mới

Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được gần hai năm cũng là lúc cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ toàn cầu diễn ra buộc các nhà nghiên cứu phải xem xét đến các vấn đề về thể chế. Nhiều nhà nghiên cứu chiến lược đặt vấn đề về sự cần thiết phải đổi mới nhận thức và điều kiện phát triển trong tình hình mới.

Lựa chọn phát triển sau khi gia nhập WTO và trong điều kiện quốc tế mới

Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191

Khi đánh giá về cuộc khủng hoảng hiện nay ở Mỹ và các nước phương Tây, U-ma Hây-kiu (Umair Haque), nhà nghiên cứu chiến lược của Mỹ, đã đề cập tới những thay đổi mang tính thể chế. Ông viết: “Mặc dù đó là một khoảng thời gian kinh hoàng, chán nản và đầy thất vọng – người ta vẫn có thể tìm thấy một tia hy vọng trong cơn khủng hoảng, đó là: nó phụ thuộc vào việc chúng ta tái hình dung, thay đổi quan niệm, và tái sáng tạo chúng…”(1).

Nguyên nhân của khủng hoảng bắt nguồn từ những đầu cơ bong bóng vào thị trường nhà, đất ở Mỹ, nhưng gốc rễ của nó chính là sự bất ổn của các thể chế tài chính – tiền tệ của tư bản chủ nghĩa. Các chương trình tái đầu tư, điều chỉnh tái cơ cấu đã được Mỹ và các nước châu Âu đề ra với những nguồn tiền khổng lồ từ ngân sách nhằm ổn định lại thị trường tài chính thế giới, như Quốc hội Mỹ thông qua giải pháp 700 tỉ USD, Cộng hòa Liên bang Đức chi 600 tỉ ơ-rô. Nhiều nước cũng đang kêu gọi sự giúp đỡ khẩn cấp của các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).

1. Những thuận lợi và thách thức đối với các nước đang phát triển sau khi gia nhập WTO và trong bối cảnh thế giới năm 2008

Mặc dù quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, tự do hoá thương mại, tự do hoá tài chính dường như đang tạo ra những cơ hội đầu tư, sản xuất và xuất khẩu to lớn, song các nước đang phát triển không dễ gì đạt được sự phát triển theo cơ cấu kinh tế mà họ mong muốn.

Ngoài các yếu tố về chính trị, khoa học, kỹ thuật, theo chúng tôi, về khía cạnh kinh tế, một trong những điểm khác căn bản của môi trường quốc tế hiện nay là các thể chế kinh tế quốc tế đã được hoàn thiện và các nước phát triển có khả năng áp đặt các điều kiện “chơi” đối với các nước đang phát triển. Thực chất của vấn đề toàn cầu hoá, tự do hoá các nền kinh tế là thúc đẩy các nền kinh tế phải mở cửa, tham gia vào tự do hoá thương mại, đầu tư và thúc đẩy tự do cạnh tranh quốc tế. Các thể chế trong khuôn khổ của là một ví dụ. Sự áp đặt các điều khoản tự do về thương mại, thúc đẩy giao lưu hàng hoá theo hướng có lợi cho các nước phát triển không chỉ thể hiện qua các hàng rào kỹ thuật, các điều kiện về thanh toán quốc tế, mà còn thể hiện ngay trong cùng một sân chơi giữa các nước đều là thành viên của WTO. Những yêu cầu đặt ra đối với các nước gia nhập WTO sau càng lớn hơn lên và sẽ ngày càng làm bất lợi cho những nước tham gia sau nữa.

Các tổ chức tài chính quốc tế cũng đã hoàn thiện các chương trình, điều kiện về tín dụng cho các nước đang phát triển nhằm khuyến khích sự đầu tư phát triển sản xuất ở những nền kinh tế mà cơ cấu sản xuất, cơ cấu xuất khẩu vốn rất giống nhau. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ thì những khuôn khổ cho vay này đang dẫn các nước nhận tín dụng đến những cuộc cạnh tranh lẫn nhau quyết liệt hơn, trên bình diện rộng lớn hơn, vượt ra ngoài nền kinh tế của mỗi nước. Đó là một thị trường quốc tế rộng lớn đã được các nước phát triển kiểm soát thông qua các thể chế quốc tế, từ tín dụng đầu tư, đến sản xuất, thương mại quốc tế và thanh khoản. Đấy là chưa kể đến hàng hoá, máy móc của các nước phát triển, do sự áp đặt bởi các thể chế kinh tế của họ đã khiến cho giá cả của chúng khi được nhập khẩu vào các nước đang phát triển cũng tăng lên, như là một sự vô hình, không dễ tính ra được.

Sự thành công của các thể chế kinh tế quốc tế hiện nay thể hiện ở chỗ, nó làm cho mô hình phát triển dựa vào các lợi thế tương đối là sức lao động rẻ, dư thừa, nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, cho tới nay đã không mang lại kết quả như mong muốn cho các nước đang phát triển. Ngược lại, sự phát triển dựa trên chính những lợi thế của các nước đang phát triển về sức lao động rẻ như phát triển ngành hàng dệt may, giầy dép, hàng nông – lâm – thủy sản, gia công lắp ráp máy móc và khai thác nguyên liệu thô xuất khẩu đang bị mất dần sức cạnh tranh do các cơ chế mà các nước phát triển áp đặt, và vì vậy, đang ngày càng làm cho họ bị nghèo đi, bị cạn kiệt dần nguồn nguyên – nhiên liệu.

Dù thế nào đi chăng nữa, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã cho chúng ta cơ hội nhìn nhận tỉnh táo hơn về con đường phát triển kinh tế của mình. Trong bối cảnh này, một xu thế nữa cũng đang được các nước đang phát triển đẩy mạnh thực hiện, đó là chuyển trọng tâm sang vấn đề tự do hoá mậu dịch, và coi đây như là một cứu cánh cho sự phát triển bền vững. Do vậy, đã xuất hiện khuynh hướng nhiều nước tích cực gia nhập WTO, đồng thời đẩy mạnh ký kết các hiệp ước mậu dịch tự do song phương cũng như thúc đẩy thương mại, đầu tư trong phạm vi khu vực, nhằm làm giảm thiểu các bất lợi và thiệt hại do khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến.

Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, xu hướng tự do hoá mậu dịch hiện nay chú trọng nhiều đến việc mở cửa thị trường lẫn nhau giữa các nước trong khi không đặt ưu tiên phát triển đúng mức. Nguyên tắc đồng thuận Oa-xinh-tơn sau khi bị chỉ trích nặng nề đã được mở rộng thêm một số điểm mới, ngoài những nguyên tắc về tự do hoá và tư nhân hoá ban đầu, như yêu cầu về điều tiết và kiểm soát tài chính, cải cách tư pháp và hành chính cũng như mạng lưới an sinh xã hội. Tuy nhiên, những cải cách này đều dựa trên những quan niệm Âu – Mỹ về tính bền vững của thể chế và nhu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, để các nước đang phát triển có thể điều chỉnh cơ cấu thành công và phát triển bền vững, điều cần thiết nhất vẫn phải là đặt trọng tâm vào việc xây dựng và củng cố các thể chế trong nước cũng như những chiến lược đầu tư phù hợp với yêu cầu của từng nước.

Hơn nữa, những luật lệ của WTO như chống phá giá, các biện pháp về trợ cấp và trả đũa, về đầu tư liên quan đến thương mại trong nông nghiệp và hàng dệt, về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS) chủ yếu phản ánh lợi ích của các nhóm quyền lợi có thế lực tại các nước tư bản phát triển mà không hề liên quan gì đến các mục tiêu phát triển bền vững của các nước đang phát triển. Do vậy, các nước đang phát triển gia nhập tổ chức này cần phải tính toán kỹ để có thể tranh thủ tối đa các thuận lợi và cũng không thể không tính đến những khó khăn, thách thức mà các thể chế này một khi được áp đặt vào điều kiện cụ thể của từng nước vốn đang gặp vô vàn bất lợi khi tham gia sâu vào toàn cầu hóa.

Những khó khăn, thách thức đó ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển, nhất là trong cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Chẳng hạn, trong năm 2008, sau 2 năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã gặp biết bao khó khăn do những bất ổn từ bên ngoài mang vào: sự dao động bất thường về giá cả của hàng loạt mặt hàng xuất khẩu và phải nhập khẩu; áp lực từ các nguồn vốn bên ngoài rất lớn đối với ổn định vĩ mô trong điều kiện các thể chế quản lý về tài chính vốn đã yếu kém, nay càng trở lên trầm trọng,… Bên cạnh những mất mát do sự dao động quá bất thường về giá cả – giữa giá nguyên, nhiên liệu và giá sản phẩm công nghiệp mà các nước đang phát triển phải nhập khẩu, giờ đây các nước này cũng phải gánh thêm những tổn thất về lạm phát, khủng hoảng tài chính từ các nước phát triển xuất khẩu ra bên ngoài. Những cạm bẫy vô hình này đang làm kiệt quệ mọi nguồn lực mà các nước đang phát triển đã nỗ lực lâu nay: tập trung thu hút đầu tư và hướng mạnh vào xuất khẩu; tiếp tục phát triển dựa trên tăng trưởng chủ yếu từ các khu vực kinh tế này, bất chấp tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nguồn nước ngày càng cạn kiệt và ô nhiễm.

Vấn đề đặt ra ở đây là, sự nhận diện kỹ, thấu đáo các vấn đề của quá trình phát triển, chấp nhận thách thức và khả năng có thể tranh thủ được các tiềm năng của môi trường quốc tế hoá về kinh tế hiện nay cho sự phát triển của mỗi nước.

2- Lựa chọn hướng phát triển

Khi xem xét lại lịch sử phát triển thần kỳ của một số nước công nghiệp mới ở Đông Á, người ta có thể đặt ra câu hỏi : Thực chất sự thành công của họ có khác nhiều so với những gì được ca ngợi bấy lâu nay? Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công đó phải kể đến môi trường quốc tế trong giai đoạn mà các nước này tiến hành công nghiệp hoá. Theo một số nhà nghiên cứu, quá trình công nghiệp hoá ở Hàn Quốc, Đài Loan, Xin-ga-po, Hồng Công (Trung Quốc) diễn ra trong bối cảnh thị trường quốc tế đang mở rộng và các nước phát triển đã dành ưu tiên rất lớn về thị trường, về vốn đầu tư, mà những ưu tiên đó, các nước phát triển theo mô hình này ở giai đoạn sau không thể có được; và một số nước phát triển còn khuyến khích, mời chào các nước này tham gia tích cực vào các chiến lược phát triển về kinh tế, quân sự của họ, nhất là của Hoa Kỳ (trong thời kỳ chiến tranh lạnh). Một nguyên nhân khác, quan trọng hơn, là các nước này đã xác lập được cơ cấu kinh tế khôn ngoan, phù hợp với môi trường kinh tế quốc tế trong từng giai đoạn phát triển. Đầu tiên là cơ cấu kinh tế thay thế nhập khẩu, rồi mới nhanh chóng chuyển sang đẩy mạnh xuất khẩu khi thấy môi trường quốc tế thuận lợi cho xuất khẩu hơn(2).

Việc xác lập các nguồn lực có hạn cho phát triển không thể chỉ dựa trên các lợi thế tương đối, trong khi môi trường quốc tế đã thay đối căn bản như ngày nay. Dựa trên những thuận lợi và khó khăn của môi trường phát triển hiện nay cũng như những phân tích về mô hình phát triển trên cơ sở bài học của một số nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài chính những năm 1997, phải chăng, để tạo được một cơ cấu kinh tế cho phát triển bền vững, các nước đang phát triển cần phải tiến tới sự linh hoạt và năng động hơn trong chiến lược phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, sự điều chỉnh một cách nhuần nhuyễn hơn, uyển chuyển hơn giữa hai con đường: công nghiệp hoá bằng thay thế nhập khẩu và phát triển với xuất khẩu làm động lực. Con đường “trung đạo” đó, khi được cụ thể hoá, phải là một chiến lược điều chỉnh cơ cấu, trong đó có sự kết hợp hài hoà hai hướng điều chỉnh là chính sách vĩ mô và xây dựng đồng bộ các thể chế. Sự đổi mới trong các chính sách thuế, trong quản lý tài chính công và phân bổ ngân sách nhà nước sẽ tác động rất lớn tới hiệu quả của các chính sách tài khoá. Ngược lại, các thể chế thị trường được xác lập và vận hành đồng bộ sẽ giúp thực hiện đạt các mục tiêu của chính sách kinh tế. Chính những thể chế này có thể sẽ giúp các nước đang phát triển giảm thiểu được những mất cân đối khi nền kinh tế bị thúc đẩy bởi đầu tư và tăng trưởng thái quá, hoặc tránh được các cú sốc từ bên ngoài.

Rõ ràng là, môi trường quốc tế hiện nay có nhiều thách thức hơn đối với các nước đang phát triển so với thời kỳ trước. Để có thể phát triển bền vững, vấn đề mấu chốt vẫn là phát huy nội lực theo hướng xây dựng và đổi mới những thể chế kinh tế trong nước để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức của thời kỳ hội nhập. Không nên đặt ưu tiên quá cao cho quá trình hội nhập kinh tế, mà bỏ quên những nhu cầu phát triển trong nước, bởi vì suy cho cùng, hội nhập kinh tế là kết quả của quá trình tăng trưởng nhiều hơn là ngược lại(3). Do vậy, yêu cầu cao đối với những nhà hoạch định chính sách của các nước đang phát triển trong môi trường quốc tế hiện nay vẫn là xây dựng một chiến lược phát triển trong nước dựa trên những nhu cầu đổi mới về các chính sách và thể chế lập pháp, tư pháp nội tại trong mỗi quốc gia, nhằm tạo môi trường tốt nhất cho đầu tư phát triển và phát huy được cao nhất sức sáng tạo của mỗi quốc gia trong quá trình tham gia toàn cầu hoá hiện nay./.

————————————

(1) U-ma Hây-kiu là Giám đốc của Havas Media Lap, một nhà tư vấn chiến lược mới chuyên tư vấn cho các nhà đầu tư, các doanh nhân và các công ty. Trước khi thành lập Havas, U-ma đã sáng lập ra Bubblegeneration (Thế hệ bong bóng) – một trung tâm chuyên tư vấn cách thiết lập chương trình nghị sự giúp hình thành nên các chiến lược của các nhà đầu tư, các doanh nhân, và các công ty blue-chip trên khắp các ngành công nghiệp truyền thông và tiêu dùng.

(2)Xem thêm: Trương Công Hùng: Chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam: chính sách đổi mới, thành công và thách thức, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học tổng hợp Humboldt-zu Berlin, 1996.

(3)Xem: Dani Rodrik: Quản lý thương mại toàn cầu với ưu tiên thích đáng cho phát triển, UNDP, tháng 10-2001. Trong bài viết này, Rodrik đã đưa ra ví dụ về trường hợp phát triển của Việt Nam và Ha-i-ti mà theo ông, mặc dù còn nhiều biện pháp bảo hộ mậu dịch, Việt Nam đã thực hiện hội nhập tốt hơn, do có tốc độ tăng trưởng cao hơn.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 1 (169) NĂM 2009

TS. TRƯƠNG CÔNG HÙNG – Giám đốc Dự án Quốc gia Hỗ trợ Thể chế cho Việt Nam, Văn phòng Quốc hội

NGUYỄN THỊ VY – Phó Trưởng Ban Chuyên đề cơ sở Tạp chí Cộng sản

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

4. Có hay không sự độc lập xét xử trong WTO ?

Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này là hệ thống xét xử của WTO thiếu sự độc lập vì cơ quan chính của nó, DSB (Dispute Settlement Body – Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO), là một thiết chế chính trị gồm đại diện tất cả các Thành viên, và như thế là khó có sự độc lập với các chính phủ.

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191

Có hay không sự độc lập xét xử trong WTO ?

Luật sư tư vấn luật đầu tư Ảnh minh họa

Song câu trả lời này không thỏa đáng. Thứ nhất cần đánh giá liệu các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm có độc lập hay không. Nói cách khác, các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm có thể hoạt động độc lập tới mức nào với: (1) Đại hội đồng WTO, (2) các thành viên WTO, và (3) Tổng Giám đốc và Ban Thư ký WTO?

Việc rà soát các quy tắc DSU thể hiện rằng những người soạn thảo đã cố gắng bảo đảm quá trình xét xử của các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm không bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của các chính phủ. DSU chỉ rõ “sự độc lập của các thành viên” như một tiêu chuẩn cho việc lựa chọn thành viên Ban hội thẩm. Trong khi đó, một số hiệp định WTO yêu cầu các chính phủ đảm bảo việc độc lập rà soát xét xử trong các vụ kiện hành chính. Vì vậy, tầm quan trọng có tính chất quy phạm của sự độc lập xét xử đã được công nhận bởi các thành viên soạn thảo hiệp định WTO.

Như các quy tắc DSU đã quy định, Ban hội thẩm được chọn từ một bảng phân công được các chính phủ Thành viên đồng ý. Trong mỗi vụ kiện, các thành viên Ban hội thẩm được Ban Thư ký đề cử tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên tranh chấp. Tuy nhiên, nếu không thể đạt được một thỏa thuận, Tổng Giám đốc sẽ chỉ định Ban hội thẩm và có thể thêm những cái tên khác. Không một thành viên nào của Ban hội thẩm có thể là công dân của các bên tranh chấp, trừ khi các bên đều đồng ý.

DSB chọn Cơ quan Phúc thẩm bảy người. Các thành viên của nó có nhiệm kỳ 4 năm và có khả năng tái bổ nhiệm. Họ không được làm việc trong bất kỳ chính phủ nào. Đến nay, chưa có phụ nữ nào được bổ nhiệm vào cơ quan này. Trong bất kỳ vụ kiện cụ thể nào, một trong ba thành viên được chọn qua một hệ thống luân phiên. Các chính phủ trong một tranh chấp không có vai trò chọn người xét xử kháng cáo.

Các quy tắc DSU hướng tới giành quyền tự quyết cho các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Điều 14.1 quy định rằng các cuộc họp của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm sẽ được giữ kín. Thêm vào đó, các quy định khác của DSU ghi nhận rằng “Sẽ không chấp nhận các thông tin một chiều chuyển đến Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm liên quan đến các vấn đề đang được xem xét…”. Trong khi các Ban hội thẩm tin tưởng vào các cán bộ trợ giúp được biệt phái từ Ban thư ký WTO, Cơ quan Phúc thẩm có ban Thư ký riêng. Từ khi DSB thành lập một Ban hội thẩm cho đến khi Cơ quan Phúc thẩm đưa ra báo cáo của mình (hoặc nếu không có kháng cáo thì đến khi Ban hội thẩm ra báo cáo), các quy tắc DSU không quy định bất kỳ vai trò nào cho DSB trong quá trình xét xử.

Chỉ sau khi các báo cáo được công bố thì DSB mới phục hồi được vai trò của mình. Các báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được thông qua bởi DSB trong vòng 30 ngày và các báo cáo của Ban hội thẩm không bị kháng cáo trong vòng 60 ngày. Các cuộc thảo luận của DSB đến một mức độ nhất định mang tính quy ước vì các báo cáo gần như chắc chắn được thông qua bằng quy tắc đồng thuận phủ quyết. Tuy nhiên, DSU nhấn mạnh “quyền của các Thành viên thể hiện quan điểm của họ” đối với một báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm. Để thuận tiện cho việc trình bày, các Thành viên phản đối một báo cáo của Ban hội thẩm trực tiếp chuyển các lí do trình bày bằng văn bản ít nhất trong thời hạn 10 ngày trước cuộc họp DSB. Trong cuộc thảo luận của DSB, các đại diện chính phủ có thể bình luận tính vững chắc của một báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm. Ví dụ, khi thảo luận quyết định trong vụ kiện Amiăng, Ấn Độ tuyên bố rằng khó có thể đồng ý với sự giải thích của Cơ quan Phúc thẩm về yêu cầu đối xử quốc gia của GATT.

Tính tự động trong việc thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm mang lại cho các cơ quan này sự độc lập. Như Philip M. Nichols đã nhận định, yêu cầu của một sự đồng thuận để phản đối thông qua “có thể tạo ra sự độc lập phần nào trên thực tế cho các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, họ không phải lo ngại về các báo cáo bị kháng cáo phần lớn/toàn bộ của các thành viên.”[1]Hiện nay, không còn gì để nghi ngờ tính khả thi của các quy tắc DSU cho phép các Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm thực hiện các chức năng tài phán của họ một cách độc lập.


[1] Philip M. Nichols, Học thuyết GATT, 36 TẠP CHÍ VIRGINIA VỀ LUẬT QUỐC TẾ 36, trang 379, 454 n.429 (1996).

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN PHÁP LUẬT BỘ CÔNG THƯƠNG – TÊN TÁC GIẢ CHƯA ĐƯỢC CẬP NHẬT

Trích dẫn từ: http://legal.moit.gov.vn

5. Báo cáo về tình hình thực hiện cam kết WTO về thủ tục đầu tư

I. WTO VÀ CÁC CAM KẾT LIÊN QUAN ÐẾN ÐẦU TU TRỰC TIẾP NUỚC NGOÀI DÀNH CHO CÁC NUỚC ÐANG PHÁT TRIỂN 1. Các hiệp định liên quan dến đầu tư trực tiếp nuớc ngoài Việc gia nhập WTO có ảnh huởng trực tiếp dến dầu tu trực tiếp nuớc ngoài thông qua bốn hiệp dịnh của WTO sau dây.

Hip đnh v tr cp và các bin pháp đi kháng (SCM): Các chính phủ có thể dùng trợ cấp dể dạt các mục dích khác nhau nhung không duợc làm méo mó th uong mại. Hiệp dịnh không hạn chế quyền hạn của chính phủ phê duyệt trợ cấp nhung cấm dùng trợ cấp gây bất lợi về thuong mại cho các n uớc khác. Các nuớc dang phát triển có thời kỳ quá dộ 8 nam dể chuyển dổi các loại trợ cấp cho phù hợp với Hiệp dịnh này, nhung trong thời gian này không duợc tang trợ cấp xuất khẩu. Quy tắc chống trợ cấp không sử dụng dối với các nuớc chậm phát triển và có GDP bình quân dầu nguời duới 1000USD.

Theo Hiệp dịnh này, các biện pháp khuyến khích dầu tu (bao gồm uu dãi về thuế, hỗ trợ tài chính và các biện pháp hỗ trợ gián tiếp) sẽ bị coi là trợ cấp nếu nhu các hoạt dộng liên quan tới dóng góp tài chính của chính phủ hoặc của một co quan nhà nuớc không nhất quán với những hoạt dộng mang tính thuong mại mà các nhà dầu tu tu nhân có thể chấp nhận. Các biện pháp dó bao gồm giao vốn trực tiếp (cấp vốn, các khoản cho vay hoặc góp vốn của chính phủ), bảo lãnh các khoản vay, chính phủ miễn thuế các khoản thu dáng lẽ phải dóng, chính phủ cung ứng hàng hóa dịch vụ hay mua hàng với giá thấp hon giá thị truờng.

Hip dịnh v nhng bin pháp dầu tu liên quan dến thuong mi (TRIMs): Cấm các nuớc sử dụng các biện pháp dầu tu liên quan dến thuong mại trái với các quy dịnh của GATT về dối xử quốc gia và các quy dịnh cấm sử dụng hạn chế dịnh luợng. Hai ví dụ thuờng gặp là yêu cầu về tỷ lệ nội dịa hóa hoặc yêu cầu về cân bằng thuong mại, tức là dòi hỏi FIEs phải hạn chế sử dụng các dầu vào nhập khẩu ở mức tuong ứng khối luợng hay giá trị mà

doanh nghiệp dó xuất khẩu. Những quy dịnh cấm này của TRIMs sẽ hạn chế việc chính phủ muốn dành uu dãi cho các sản phẩm nội dịa so với hàng nhập khẩu. TRIMs cung cấm quy dịnh hạn chế khả nang tiếp cận nguồn ngoại hối của FIEs, làm hạn chế nhập khẩu của các doanh nghiệp này và cấm các nuớc yêu cầu về tiêu thụ trong nuớc dối với FIEs, hay dòi hỏi FIEs phải bán một tỷ lệ nhất dịnh sản phẩm trên thị truờng nội dịa dể hạn chế xuất khẩu.

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191

Báo cáo về tình hình thực hiện cam kết WTO về thủ tục đầu tư

Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài Ảnh minh họa

Hip dịnh chung v thuong mi – dch v (GATS): Hiệp dịnh này yêu cầu không duợc phân biệt dối xử giữa các sản phẩm dịch vụ do các nhà cung cấp dến từ các nuớc khác nhau trên co sở nguyên tắc MFN. Các nuớc không dối xử kém thuận lợi hon dối với dịch vụ và nguời cung cấp dịch vụ nuớc ngoài so với dịch vụ và nguời cung cấp trong nuớc.

Hip dịnh v quyn s hu trí tu liên quan dến thuong mi (TRIPs): Hiệp dịnh này dua ra nguyên tắc và quy dịnh các mức bảo hộ tối thiểu mà quốc gia thành viên phải bảo dảm quyền sở hữu trí tuệ cho các thành viên khác dựa trên co sở ba nguyên tắc của WTO là nguyên tắc dối xử quốc gia, dối xử tối huệ quốc gia và bảo hộ cân bằng. Một số linh vực duợc bảo hộ liên quan dến các doanh nghiệp có vốn dầu tu nuớc ngoài (FIEs) nhu nhãn hiệu hàng hóa, thuong hiệu, bằng sáng chế, bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp, thông tin bí mật…làm cho các nhà dầu tu nuớc ngoài yên tâm hon khi bỏ vốn dầu tu vào nuớc thành viên.

2. Quy dịnh ca WTO v nhng đi xửdặc bit và khác bit dành cho các nuớc dang phát trin và các nuớc chm phát trin

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) chia các thành viên thành 4 nhóm chính:

– Kém phát triển (chậm phát triển): Các thành viên duợc xếp vào loại này can cứ vào những tiêu chuẩn phân loại của Liên hợp quốc và hiện nay WTO có khoảng 50 thành viên thuộc loại này.

– Nuớc có nền kinh tế chuyển dổi: Các thành viên xếp vào loại này là những nuớc truớc dây có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nay chuyển sang nền kinh tế thị truờng.

– Nuớc dang phát triển: Ðây là nhóm thành viên dông dảo nhất của WTO. Hiện nay chua có một dịnh nghia thống nhất về việc nuớc nào duợc coi là dang phát triển mà chủ yếu là do mỗi nuớc tự nhận.

– Nuớc phát triển: Thuộc loại này là những thành viên còn lại ngoài 3 nhóm trên và hầu hết dó là những nuớc thành viên của OECD.

Với cách phân chia nhu vậy thì hiện nay hon 3/4 số thành viên của WTO là các nuớc dang phát triển, kém phát triển và các nuớc có nền kinh tế chuyển dổi. Nhiều hiệp dịnh của WTO dành các diều khoản uu dãi riêng cho các nuớc thuộc những nhóm này, duợc gọi là dối xử dặc biệt và khác biệt (Special and differential treatment). Ðối xử dặc biệt và khác biệt là dối xử dành cho các nuớc dang phát triển, kém phát triển và những nền kinh tế chuyển dổi, thuờng mang tính giảm nhẹ so với những nghia vụ, cam kết chung mà WTO dề ra. Chẳng hạn nhu: duợc miễn không phải thực hiện một nghia vụ nào dó; mức dộ cam kết thấp hon; thời gian thực hiện những cam kết dài hon; duợc huởng uu dãi bổ sung về mở cửa thị truờng của các nuớc phát triển…Toàn bộ những uu dãi trong các hiệp dịnh của WTO dành cho các nuớc dang phát triển, kém phát triển và các nền kinh tế chuyển dổi bao gồm:

2.1. Thương mi hàng hoá

a. V thuế quan

Sau mỗi vòng dàm phán, thuế suất mà các nuớc thoả thuận với nhau duợc ghi vào bản danh mc uu dãi, hay còn gọi là danh mc thuế quan (Tariff Schedule). Mỗi nuớc có một danh mục thuế quan riêng. Thuế suất ghi vào danh m ục này duợc gọi là Thuế suất ràng buộc (Binding rate), tức là sau này nuớc dó sẽ không duợc phép tang thuế suất cao hon mức dã ghi trong danh m ục thuế quan. Nhu vậy, nếu dã dua vào danh mục thuế quan là mặt hàng dó dã bị ràng buộc về thuế, còn những mặt hàng nào không dua vào danh mục thuế quan thì duợc tự do tang thuế.

Khi tham gia vào WTO, các nuớc dang phát triển phải cam kết ràng buộc thuế dối với 100% hàng nông sản và 73% sản phẩm công nghiệp, còn các nuớc công nghiệp phát triển là 100% và 97%. Ngoài ra dựa trên mức thuế dã ràng buộc, các nuớc thành viên phải tiến hành cắt giảm thuế quan. Trong linh vực nông nghiệp, thuế suất dối với các nông sản sẽ duợc cắt giảm trung bình 36% ở các nuớc phát triển (mức giảm tối thiểu mỗi dòng thuế không ít hon 15%) và 24% ở các nuớc dang phát triển (mức giảm tối thiểu dối với mỗi dòng thuế không ít hon 10%). Việc cắt giảm duợc tiến hành lần luợt trong vòng 6 nam dối với các nuớc phát triển (1995-2000) và 10 nam dối với các nuớc dang phát triển (1995-2004). Các nuớc kém phát triển nhất sẽ duợc huởng chế dộ uu dãi dặc biệt và có những quy dịnh riêng cụ thể.

b. Các bin pháp phi thuế

* Các biện pháp hạn chế dịnh luợng

Mặc dù WTO không cho phép dùng hạn ngạch, giấy phép có tính dịnh luợng dể hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong nuớc, trừ sản phẩm dệt và may mặc, tuy nhiên, dối với các nuớc dang phát triển, WTO yêu cầu các thành viên phát triển phải nâng dần tỷ lệ tang truởng hạn ngạch hàng dệt và may mặc qua các nam. Ðối với sản phẩm nông nghiệp, các nuớc có thể dùng hạn ngạch thuế quan. Riêng với các nuớc dang phát triển, chậm phát tri ển, WTO cho phép sử dụng các biện pháp hạn chế dịnh luợng nhu hạn ngạch, giấy phép này trong một thời gian nhất dịnh, nhung thời gian này dài hay ng ắn phải thông qua dàm phán chứ không duợc tuỳ ý áp dụng.

* Trợ cấp xuất khẩu và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ Tr cp trong nông nghip: Theo nguyên tắc chung của WTO, các

thành viên c ủa tổ chức này phải tiến hành cắt giảm trợ cấp xuất khẩu và dần xoá bỏ các biện pháp trợ cấp xuất khẩu dối với hàng nông sản. Các nuớc công nghi ệp phải cắt giảm 36% nguồn ngân sách trợ cấp dành cho xuất khẩu nông sản phẩm trong vòng 6 nam tính từ nam 1995, khối luợng hàng hoá duợc huởng trợ cấp giảm 21% cung trong thời gian trên. Ðối với các nuớc dang phát triển, mức dộ cắt giảm là 24% nguồn ngân sách trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm, khối luợng hàng hoá duợc huởng trợ cấp sẽ duợc giảm 14% trong vòng 10 nam tính từ nam 1995. Tuy nhiên, các thành viên dang phát triển và kém phát triển nhất có thể duy trì các loại trợ cấp xuất khẩu nhu: trợ cấp giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản, kể cả những chi phí vận chuyển, nâng cấp và các chi phí chế biến khác, chi phí vận tải quốc tế và cuớc phí; các diều kiện vận tải nội dịa duợc uu dãi hon so với hàng tiêu thụ trong nuớc. Trong linh vực nông nghiệp, các thành viên dang và kém phát triển còn duợc duy trì nhiều loại hỗ trợ trong nuớc gắn liền voí các chuong trình phát triển nhu: trợ cấp dầu tu trong nông nghiệp, trợ cấp dầu vào cho những nguời sản xuất có thu nhập thấp và thiếu nguồn lực, trợ cấp thay dổi co cấu cây trồng ( ví dụ, thay thế trồng cây thuốc phiện bằng những loại cây có ích…).

WTO quy dịnh rằng, các thành viên phải cam kết cắt giảm và tiến tới xoá bỏ tất cả các chính sách hỗ trợ trong nuớc mà chính phủ nuớc mình dang duy trì. Nhung, dối với các nuớc dang và kém phát triển thì không phải dua vào các cam kết cắt giảm của mình các hỗ trợ nhỏ hon 10% giá trị sản luợng nông sản nhận duợc sự hỗ trợ dó.

Tr cp trong công nghip: WTO yêu cầu các thành viên của mình ph ải loại bỏ ngay các hình thức trợ cấp trong linh vực công nghiệp, nhung cung có những uu tiên cho các nuớc dang phát triển vì chính sách trợ cấp có ý ngh ia quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nuớc này. Cụ thể, WTO quy dịnh là:

Thứ nhất, các nuớc thành viên chậm phát triển nhất và các thành viên dang phát triển có thu nhập quốc dân bình quân trên dầu nguời duới 1000USD/nam duợc phép duy trì trợ cấp xuất khẩu dối với các sản phẩm công nghi ệp. Còn dối với các thành viên dang phát triển khác không thuộc hai loại trên thì duợc phép duy trì trợ cấp xuất khẩu trong vòng 8 nam kể từ ngày hiệp dịnh WTO có hiệu lực (tức là họ phải loại bỏ trợ cấp xuất khẩu vào nam 2003).

Thứ hai, các thành viên chậm phát triển nhất duợc phép áp dụng loại trợ cấp cho sản xuất thay thế hàng nhâp khẩu trong thời gian là 8 nam, còn các thành viên dang phát triển khác duợc phép áp dụng loại trợ cấp này trong vòng 5 nam kể từ ngày hiệp dịnh WTO có hiệu lực. Tức là thời hạn cuối cùng phải loại bỏ trợ cấp cho sản xuất thay thế hàng nhập khẩu dối với các thành viên chậm phát triển nhất vào nam 2003, và dối với các thành viên dang phát triển là vào nam 2000.

Ngoài ra, WTO cung quy dịnh rằng, những thành viên dang phát triển có thu nhập quốc dân bình quân tính trên dầu nguời ở mức trên 1000USD/nam dã dạt duợc trình dộ cạnh tranh trong xuất khẩu với bất kỳ sản phẩm nào sẽ phải xoá bỏ dần trợ cấp xuất khẩu dối với sản phẩm dó trong thời hạn 2 nam. Còn các thành viên chậm phát triển nhất và những thành viên dang phát triển có thu nhập quốc dân trên dầu nguời duới 1000USD/nam mà dã dạt duợc tính cạnh tranh trong xuất khẩu một hoặc nhiều sản phẩm thì trợ cấp xuất khẩu dối với những sản phẩm dó sẽ phải xoá bỏ trong vòng 8 nam. Ðồng thời WTO cung quy dịnh rằng, một sản phẩm duợc coi là có tính cạnh tranh nếu thành viên dang phát triển dã xuất khẩu sản phẩm này chiếm ít nhất 3,5% thị phần của thuong mại thế giới về sản phẩm dó trong hai nam liên tục.

Ngoài tr ợ cấp xuất khẩu, các thành viên dang phát triển còn có thể áp dụng trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội dịa trong vòng 5 nam kể từ ngày Hi ệp dịnh WTO có hiệu lực. Riêng dối với các thành viên trong quá trình chuyển dổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị truờng duợc tiếp tục duy trì trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích sử d ụng hàng nội dịa trong vòng 7 nam kể từ ngày Hiệp dịnh WTO có hiệu lực.

WTO cung có quy dịnh rằng, các nuớc dang phát triển vẫn duợc dối x ử uu dãi trong thuong mại cho dù hàng xuất khẩu của họ dang bị diều tra dể áp dụng thuế dối kháng. Bất kỳ việc diều tra thuế dối kháng nào áp dụng dối với sản phẩm có xuất xứ từ một thành viên dang phát triển sẽ bị chấm dứt ngay khi nhà chức trách liên quan xác dịnh rằng:

– Tổng số trợ cấp cho một sản phẩm không vuợt quá 2% giá trị của nó (dối với các nuớc thành viên dang phát triển có thu nhập quốc dân bình quân tính trên dầu nguời trên 1000USD/nam dã xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu truớc thời hạn cho phép và với các thành viên chậm phát triển nhất hoặc các thành viên có thu nhập quốc dân duới 1000USD/nam thì con số tuong ứng sẽ là 3%).

– Khối luợng hàng nhập khẩu duợc trợ cấp chỉ chiếm duới 4% tổng nhập khẩu sản phẩm tuong tự vào thành viên nhập khẩu, trừ truờng hợp khối luợng hàng nhập khẩu từ một nhóm nuớc dang phát triển cùng nhau chiếm tới hon 9% tổng thị phần nhập khẩu sản phẩm tuong tự tại thành viên nhập khẩu (mặc dù mỗi nuớc trong nhóm chỉ chiếm ít hon 4% thị phần nhập khẩu).

– Ðịnh giá Hi quan: WTO dã dua ra những quy dịnh về các nguyên tắc và phuong pháp xác dịnh giá trị của hàng hoá nhập khẩu, quy dịnh quyền, nghia vụ của hải quan và nhà nhập khẩu nhằm bảo dảm việc xác dịnh giá trị hàng hoá nhập khẩu một cách khách quan và công bằng. Theo quy dịnh của WTO, tiêu chuẩn chính dể tính giá trị hàng hoá nhập khẩu là can cứ vào Giá trị giao dịch (Transaction value), chỉ một số ít truờng hợp không xác dịnh duợc giá trị giao dịch thì mới áp dụng cách tính khác. Tuy nhiên, dối v ới các nuớc dang phát triển thì WTO cho phép có quyền duy trì hệ thống giá tính thuế tối thiểu hiện hành trong một thời gian quá dộ thông qua dàm phán v ề một số ít mặt hàng.

Bên cạnh dó, các nuớc dang phát triển còn duợc trợ giúp kỹ thuật trong việc dào tạo nhân lực, soạn thảo và áp dụng các biện pháp mới, tiếp c ận thông tin về các phuong pháp dịnh giá hải quan, nghiên cứu tìm giải pháp trong truờng hợp các nuớc này gặp trở ngại dến mức có thể ảnh huởng dến các nhà nhập khẩu và phân phối don lẻ.

Hàng rào k thut dối vi thuong mi: WTO quy dịnh các nguyên tắc về việc sử dụng các tiêu chuẩn bắt buộc, các tiêu chuẩn tự nguyện nhằm dảm bảo các tiêu chuẩn dó không tạo ra một rào cản phi thuế quan dối với thuong mại hàng hoá giữa các nuớc thành viên. Tuy nhiên, dối với các nuớc dang và chậm phát triển, WTO dành cho họ những uu dãi nhất dịnh, theo dó, các nuớc phát triển cần phải công nhận những khó khan dặc biệt của các nuớc dang phát triển trong khi xây dựng và áp dụng các quy dịnh kỹ thuật và giúp dỡ họ trong linh vực này. Các nuớc dang và chậm phát triển duợc tu vấn, hỗ trợ trong việc soạn thảo các quy dịnh kỹ thuật, thành lập các co quan tiêu chuẩn quốc gia, tham gia các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợ các nhà sản xuất tiếp cận hệ thống dánh giá hợp chuẩn trên lãnh thổ nuớc mình. Trừ các truờng hợp khẩn cấp, các nuớc phát triển phải dành thời gian hợp lý truớc khi áp dụng những biện pháp mới dể các nuớc dang phát triển diều chỉnh sản phẩm hoặc quy trình sản xuất. Ðồng thời WTO cung quy dịnh rằng, các nuớc thành viên sẽ luu tâm và xem xét dến các diều kiện phát triển kinh tế, thuong mại, tài chính của các nuớc dang phát triển trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn, quy dịnh kỹ thuật, nhằm không tạo ra những trở ngại bất hợp lý dối với hàng xuất khẩu từ các nuớc dang phát triển. Trong diều kiện công nghệ và kinh tế xã hội dặc biệt của nuớc mình, các nuớc dang phát triển có thể không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế mà duợc phép áp dụng một số tiêu chuẩn, quy dịnh kỹ thuật cụ thể nhằm mục dích duy trì các k ỹ thuật, quy trình sản xuất trong nuớc phù hợp với trình dộ phát triển, nhu cầu tài chính và thuong mại của nuớc mình.

Các bin pháp t v trong thuong mi: WTO quy dịnh các nuớc thành viên duợc phép áp dụng các biện pháp tự vệ trong thuong mại, theo dó, một nuớc có thể hạn chế nhập khẩu trong những truờng hợp khẩn cấp, khi l uợng hàng hoá nhập khẩu tang dột biến, gây ra hoặc de doạ gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội dịa sản xuất ra các s ản phẩm tuong tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp.

CIEM – DANIDA PROJECT

SOURCE: VNEP, 11/2008