1. Giải quyết tranh chấp

Về khái niệm chung, giải quyết tranh chấp chính là Việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét và ra quyết định xử lý các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia định, kinh doanh, thương mại, lao động, trên cơ sỏ xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ việc tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Tranh chấp quốc tế là sự tranh chấp xảy ra giữa hai bên hoặc nhiều bên quốc gia có chủ quyền. Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực hoạt động quốc tế của các quốc gia, nhưng nổi cộm nhất, chủ yếu nhất là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ bao gồm chủ quyền trên đất liền, trên các hải đảo, trên biển, trên không… 

 

2. Giải quyết tranh chấp trong Tòa án EFTA

Để có thể điều tra và đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định EEA, các quốc gia EFTA đã lập ra Cơ quan Giám sát EFTA bao gồm 3 thành viên, và một Toà án EFTA bao gồm 3 thẩm phán thường trực.

Các thành viên và thẩm phán được chỉ định do thoả thuận của các Nhà nước EFTA/EEA. Những thể chế này phản ánh chức năng giám sát của uỷ ban và vai trò của ECJ trong EU, đối với việc áp dụng thoả thuận EEA trong các Nhà nước EFTA. Trong những điều kiện nhất định, Toà án EFTA có thẩm quyền xử lý những vụ kiện và những kháng nghị chống lại một số quyết định của cơ quan Giám sát EFTA hoặc do sự bất lực trong hành động cũng như trong giải quyết tranh chấp giữa hai hoặc nhiều nước EFTA. Toà án EFTA cũng có quyền xử để đưa ra ý kiến cố vấn đối với các toà án quốc gia trong việc diễn giải Hiệp định EEA.

Toà án EFTA đã quyết định tất cả 38 vụ. Hầu hết là đưa ra những ý kiến cố vấn về việc giải thích các quy tắc EEA đối với các toà án quốc gia. Tất cả các vụ đều liên quan đến 4 quyền tự do. Trong lĩnh vực chủ chuyển tự do của hàng hoá.

 Ví dụ trong 2 vụ có liên quan đến một số vấn đề trong việc độc quyền bán rượu vang ở Phần Lan và Na uy, Toà án đã đưa ra các ý kiến cố vấn để giải thích Hiệp định EEA, Điều 11 về cấm hạn chế số lượng và Điều 16 về hành vi không phân biệt đối xử của những Nhà nước độc quyền khi mua sắm và tiếp thị hàng hoá.

 

3. Bàn về Ban hội thẩm và các thủ tục tư pháp tương đương khác  

Khi đang đàm phán về cơ chế giải quyết tranh chấp cho hiệp ước tương ứng thì các bên luôn tự do đàm phán về những biện pháp mà họ cho rằng thích hợp nhất. Điều này dẫn tới có nhiều kiểu mẫu và phương pháp khác nhau. Giải quyết tranh chấp ở WTO là một ví dụ tốt của vấn đề này.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT được dựa trên Điều 22 và 23 của GATT năm 1947; trong khi một số quyết định và thoả thuận giũa các bên, trong việc biên soạn luật hải quan và các thủ tục được áp dụng. Nếu việc tham khảo giữa các bên tranh chấp không đạt được kết quả như mong đợi, việc tranh chấp sẽ được các bên ký kết uỷ thác cho một tổ công tác hay một ban hội thẩm điều tra ngay. Trừ khi một thoả thuận đạt được trong quá trình thực hiện, ban hội thẩm sẽ phải trình những điều đã phât hiện và khuyến nghị bằng văn bản lên Hội đồng để được chấp thuận bởi thoả thuận chung của tất cả các bên ký kết. Vì vậy, mỗi bên sẽ có khả năng ngăn chặn sự thông qua báo cáo của ban hội thẩm.

Hơn 250 trường hợp khiếu nại được đưa ra và hơn 130 ban hội thẩm được thiết lập theo những hệ thống giải quyết tranh chấp khác nhau của GATT cho đến năm 1995. Hội đồng đã thùa nhận hầu hết các báo cáo của ban hội thẩm. Trong một vài trường họp mà báo cáo đã được thông qua, đề cập đến thoả thuận sơ bộ về việc diễn giải về mặt pháp lý của một số vấn đề nhất định, hoặc sẽ không được thông qua.

Theo Điều 23: 2 của GATT năm 1947, các bên ký kết có thể được phép có những biện pháp trả đũa nếu một bên không tuân thủ những khuyến nghị mà ban hội thẩm đưa ra. Bên chống lại những biện pháp trả đũa có thê rút khỏi Hiệp định trong vòng 60 ngày sau đó, khi đã được thông báo về những biện pháp này. Không có bên nào rút khỏi GATT 1947 trên cơ sở này.

Hệ thống giải quyết tranh chấp GATT đã dần dần chuyển thành một hệ thống có tính chất phấp lý hơn. Bản DSU năm 1994 có hiệu lực ngày 1/1/1995 khẳng định rằng sự gắn kết với những quy tắc của GATT năm 1947 thành bản giải thích chi tiết và có điều chỉnh. DSU được áp dụng cho những Hiệp định WTO khác nhau tuỳ thuộc một số thủ tục cụ thể đã được phổ biến, ví dụ về vấn đề vệ sinh và ngành dệt. Hệ thống mới đưa vào một quá trình có quy củ hơn với những hạn định thời gian rõ rệt. Theo hệ thống mới này, việc ngăn cản chấp thuận các phán quyết sẽ khó khăn hơn vì những phán quyết này được tự động áp dụng, trừ khi người ta đồng lòng huỷ bỏ nó.

Một bước quan trọng trong việc pháp lý hoà cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO chính là việc thiết lập Cơ quan Phúc thẩm thường trục, gồm những người có thẩm quyền được công nhận và có chuyên môn về pháp luật, về các Hiệp định thương mại quốc tế và Hiệp định WTO. Các bên tranh chấp có thể đưa ra phúc thẩm một số vấn đề đã được nói đến trong báo cáo của ban hội thẩm và những diễn giải pháp lý của ban hội thẩm.

Theo DSƯ, những điều khoản về giám sát và thực hiện các khuyến nghị hoặc các phán quyết được tăng cường.

Theo Điều 21 và 22 đề ra nghĩa vụ của các bên là phải thông báo ý định của họ về việc thực hiện và các quy tắc hạn định thời gian đã được các bên đồng ý hoặc do trọng tài bắt buộc. Một tranh chấp về thực hiện có thể phải quay trở lại với ban hội thẩm ban đầu. Những biện pháp đình chỉ và bồi thường có thể được áp dụng như những biện pháp tạm thời khi các khuyến nghị hoặc các phán quyết chưa được thực hiện.

Một số lớn các phán quyết của ban hội thẩm bị kháng nghị lên Cơ quan Phúc thẩm. Trong khoảng 2/3 các trường hợp thì Cơ quan Phúc thẩm kết luận ngược lại với kết quả của ban hội thẩm từng phần hoặc tất cả, hoặc cơ quan này sửa đổi luận chứng pháp lý của cấc ban hội thẩm. Trong những trường hợp khác, Cơ quan Phúc thẩm ủng hộ những kết luận của các ban hội thẩm, số lượng các trường hợp được nộp cho Cơ quan Phúc thẩm chứng tỏ sự tăng cường về lòng tin của các Nhà nước Thành viên của WTO trong việc đảm bảo về mặt pháp lý vói cơ chế bắt buộc này.

Về lâu dài, những phán quyết của những cơ quan pháp lý thường trực này sẽ từ từ đưa ra giải đáp cho những vấn đề về diễn giải các Hiệp định WTO có liên quan đến tranh chấp, việc này làm cho cả hệ thống trở nên có thể dự đoán trước được.

 

4. Lựa chọn Tòa án trong giải quyết tranh chấp quốc tế 

Các vấn đề của WTO và FTAs ưu đãi có thể căn bản tương đương như nhau. Vấn đề phát sinh ở đây là cơ chế giải quyết tranh chấp nào các bên sẽ lụa chọn, các ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm sử dụng thụ tục theo WTO hay thủ tục trọng tài theo FTAs. ở trong những FTA của EFTA không có điều khoản đặc biệt nào được đưa vào để điều chỉnh việc lựa chọn toà án. Điều đó phụ thuộc vào quyền tự do của các bên lựa chọn toà án để giải quyết tranh chấp, về mặt lý luận, tồn tại khả năng là cùng một vụ tố tụng lại được xét xử ở hai hệ thống pháp lý khấc nhau. Không chắc rằng sẽ vì lợi ích của các bên tranh chấp mà đua ra hai hệ thống xét xử cho cùng một vấn đề, trừ khi phía bị thua muốn thử vận may ở một toà án khác. Để tránh tình trạng này, điều khoản về lụa chọn một toà án là cần thiết.

Nếu các bên lựa chọn riêng điều khoản giải quyết tại toà án, thì điều khoản này thường cho phép rằng cùng một trường hợp có thể giải quyết ở một toà án khác theo như ý muốn của nguyên đơn. Khi một toà án được chọn lựa thì toà sẽ được sử dụng để loại trừ toà án kia ra. Khi tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thì tính chất của tranh chấp có thể xác định sự lựa chọn của các bên. Trong một vài trường hợp, có thể là tiện lợi hơn khi giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương.

 

5. Kết thúc vấn đề

Cơ chế giải quyết tranh chấp được nói đến cho thấy sự tin tưởng ngày càng tăng trong việc áp dụng các nguyên tắc của luật và để giải quyết tranh chấp trong các quan hệ thương mại quốc tế. Ở cấp độ khu vực hiện nay, rất nhiều Hiệp định Thương mại Tự do đưa ra điều khoản về trọng tài nhưng những toà án thường trực chỉ được thành lập theo thoả thuận khi mục tiêu của nó là đạt được sự hội nhập ở mức độ cao, bao gồm cả 4 quyền tự do cho hàng hoá, dịch vụ, vốn và con người, ở cấp độ đa phương, việc tăng cường các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được 135 nước thành viên của WTO chấp nhận, đó là chỉ số tốt nhất biểu thị sự chấp nhận chung của các Nhà nước về lĩnh vực này.

Cho đến nay, xuất phát từ quan điểm của các Nhà nước EFTA, những kinh nghiệm thực tế từ cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu lực phần lớn dựa chủ yếu vào các vụ kiện của WTO. Một số ít hơn các trường họp phát sinh giữa các Nhà nước theo những hiệp ước khu vực. Các điều khoản trọng tài trong FTAs của EFTA thực ra là chưa bao giờ được áp dụng. Sự khác biệt đã phát sinh theo những hiệp định này cho đến bây giờ vẫn chỉ được giải quyết thông qua sự tham vấn trực tiếp giữa các bên có liên quan hoặc ở trong các uỷ ban Hỗn hợp.

Rõ rằng là, mục đích của việc thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp với tác dụng ràng buộc các bên tham gia tranh chấp về mặt pháp lý không phải là để làm tăng số lượng các vụ tranh chấp lên. Sự tồn tại đơn giản của những cơ chế này thậm chí có thể giúp các bên tìm ra các giải pháp thông qua sự tham vấn. Thực ra mục đích ở đây là bổ sung về pháp lý nhất định trong mối quan hệ thương mại quốc tế và để tăng cường sự công bằng trong thương mại.  

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).