1. Hệ tư tưởng quốc gia (hệ tư tưởng xã hội)
Hệ tư tưởng quốc gia hoặc hệ tư tưởng xã hội chung là mô hình được tổ chức cao nhất hoặc một loại quan điểm xuất phát từ nhà nước và là sự lựa chọn cấp bách và nhất quán các tư tưởng quan trọng nhất bằng các lực lượng và các phương tiện của nhà nước.
Hệ tư tưởng quốc gia tồn tại dưới dạng một hệ thống toàn vẹn, được thiết lập một cách có lôgic và có thứ bậc. Chỉ trong trường hợp khi nhà nước chấp nhận một cách có ý thức hoạt động tư tưởng của mình, làm cho hoạt động đó có vai trò đáng kể trong nhiều chức năng khác, bằng tất cả các kênh giao tiếp và các hình thức tương tác chính trị vói quần chúng, tạo ra và phổ biến mô hình tư tưởng nền tảng nào đó, thì lúc đó với mức độ xác định đầy đủ có thê’ ghi nhận sự tồn tại của hệ tư tưởng đó. Đặc biệt điều đó đặc trưng cho các hình thức nhà nước độc tài và độc đoán, noi mà hệ tư tưởng quốc gia rất nghiêm khắc, giáo điều và được tán dương, không dung thứ vói các hệ tư tưởng khác, nơi mà việc có quan điểm khác ở mọi mức độ và hình thức đều bị đánh giá là có thái độ chống đối nhà nước và giới lãnh đạo và bị trừng trị nghiêm khắc. Chính kiểu hệ thống tư tưởng chính thức đó, thông thường, được coi là hệ tư tưởng quốc gia nói chung, là hình thức thuần khiết và thống nhất của nó.
Chẳng hạn, theo A.p. Butenko, hệ tư tưởng quốc gia là hệ thống các quan điểm và các tư tưởng do chính quyền công bố chính thức đối với quốc gia đó; hệ tư tưởng đó thâm nhập vào tất cả các mặt của đời sống xã hội và đời sống cá nhân và vai trò của nó được khẳng định bằng quyền uy của nhà nước, trong đó có các cơ quan cưỡng chế của nó.
2. Bàn luận về hệ tư tưởng quốc gia
Định nghĩa nêu trên mói chỉ phản ánh hệ tư tưởng của nhà nước độc tài.
Đồng thời, hệ tư tưởng xuất phát từ nhà nước không phải bao giờ cũng tàn khốc, độc tài và đàn áp. Tất cả các nhà nước dân chủ đều có và phát triển một cách hướng đích hệ tư tưởng vói tư cách là một hệ thống giá trị chỉnh thể đầy đủ. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng, nhà nước đó mong muốn có được sự độc quyền trong lĩnh vực tư tưởng, không chấp nhận và đàn áp đối với các hệ tư tưởng khác tồn tại trong xã hội và những người mang các hệ tư tưởng đó.
Trong các nhà nước dân chủ, sự đa dạng, đa nguyên về tư tưởng, quan điểm, chính kiến, hệ thống nhiều đảng phái, tự do ý kiến, v.v. được hiến định và tồn tại trên thực tế. Nhung ở đây nhà nước thể hiện là chủ thể chính trị bình đẳng dẫn dắt cuộc đấu tranh cạnh tranh chân chánh với các chủ thể khác của đời sống chính trị về ý thức xã hội của dân cư mình và mong muốn thuyết phục về sự đúng đắn của mình, về sự phù hợp của các tư tưởng của mình với các nhu cầu và các lợi ích khách quan của công dân.
Ở đây, hệ tư tưởng của các nhà nước dân chủ (hệ tư tưởng pháp luật quốc gia) định hướng để xã hội lĩnh hội được các giá trị nền tảng của nhà nước pháp quyền: sự công nhận, tôn trọng, bảo đảm các quyền và tự do của con người và của công dân, sự thượng tôn hiến pháp và pháp luật, sự tuân thủ pháp luật, tình yêu đối với Tổ quốc, V.V..
Do đó, định nghĩa thành công nhất về hệ tư tưởng quốc gia là định nghĩa do T.p. Korzhihina và A.s. Senina đưa ra, theo đó: hệ tư tưởng quốc gia là tổng thể các tư tưởng mà với sự hỗ trợ của chúng chế độ chính trị đang tồn tại luận chứng quỳên của mình về quyền lực và chế độ chính trị tuấn thủ chúng trong hoạt động hàng ngày của mình. Mục tiêu của hệ tư tưởng quốc gia là sự luận chứng về quyên lực, về các phương pháp để đạt được quyền lực, về việc nâng cao uy tín của quyền lực đối vói các công dân của mĩnh và cộng đông quốc tê.
3. Khái niệm hệ tư tưởng quốc gia
Tư tưởng quốc gia (hoặc tư tưởng dân tộc) là tổng thể các định hướng giá trị được thừa nhận chưng mang tính chỉnh thể và tính hệ thống ít hơn, khắc họa đường chu vi lớn hơn và được nhà nước ủng hộ.
Tư tưởng quốc gia có thể được thể hiện dưới các thể loại khác nhau – từ các bản hiến pháp quốc gia và các khái luận khoa học cho đến các khẩu hiệu và các thành ngữ chính trị ngắn gọn. Tuy nhiên, trong cấu thành của tư tưởng quốc gia luôn bao gồm hai yếu tố: một công thức thế giói quan nào đó và vị trí xác định tư tưởng và số phận tồn tại của một dân tộc trong công thức đó. Như nói ở trên, ở đây tư tưởng quốc gia không có tính hệ thống nghiêm ngặt và không có tính thứ bậc, không có sự phục tùng và tính quyết định lẫn nhau của các yếu tố. Nói đúng hơn, đó là tổng thê’hoặc là sự lựa chọn các định hướng giá trị tối ưu và mong muốn nhất đối với công dân của quốc gia đó.
Chính sự hiện có và liên tục phát triển qua từng thế kỷ tiếp theo của tư tưởng quốc gia (dân tộc) là điều kiện bảo đảm sự tồn tại của dân tộc vói tư cách là chủ thể độc lập của quá trình lịch sử và của quốc gia, của dân tộc đó. Tư tưởng quốc gia là trung tâm tư tưởng của sự thống nhất dân tộc, liên kết tất cả dân cư sống trong một không gian nhất định. Việc thiếu vắng hoặc việc làm suy yếu tư tưởng đó có thể dẫn đến sự sụp đổ của không gian có giá trị thống nhất, biến nhà nước thành tổng thể vô hình các cá nhân và các nhóm xã hội có mối liên hệ yếu vói nhau, thành cái được gọi là vật liệu dân tộc học được hòa tan một cách tiền định trong các cấu thành dân tộc khác.
4. Chính sách pháp luật ở Việt Nam
Một trong những vân đề then chốt Việt Nam hiện nay là phòng ngừa sự suy yếu của Nhà nước Việt Nam. Việc phòng ngừa đó được thực hiện không chỉ bằng các biện pháp hành chính quốc gia mang tính truyền thống hoặc các biện pháp tài chính.
Tuy nhiên, các biện pháp hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra cần phục sinh và phát triển tư tưởng Việt Nam, hình thành nên nền tảng của sự đoàn kết, đồng thuận dân tộc với tư cách là học thuyết quốc gia bao gồm các quan điểm về các mục tiêu, quan điểm và nhiệm vụ phát triển xã hội, phát triển nhà nước, tính chất của chế độ chính trị, tính định hướng và các phương pháp phát triển chế độ được phần lớn Nhân dân Việt Nam công nhận. Khi nói về tư tưởng quốc gia, cần lưu ý rằng, ở đây nhà nước và các cơ quan nhà nước ở chừng mực ít hơn rất nhiều có được sự lựa chọn và tuyên truyền có ý thức về tư tưởng quốc gia, bởi vì, tư tưởng quốc gia tồn tại cho chính mình với tư cách là kết quả của sự tự ý thức xã hội và sự tự tổ chức của xã hội. Ngay cả có trường hợp ngược lại, tư tưởng quốc gia tồn tại một cách khách quan không phù hợp (có khi mâu thuẫn trực tiếp) với ý chí lãnh đạo của nhà nước và hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước. Trong lịch sử có không ít nhà lãnh đạo chính trị ở một số quốc gia, do những nguyên nhân khác nhau, đã tiến hành chính sách mâu thuẫn với cả các lợi ích khách quan của quốc gia đó lẫn vói tư tưởng quốc gia và điều đó dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc bên trong quốc gia, trong không ít trường hợp dẫn đến sự sụp đổ của nhà nước.
Khác với thuật ngữ “hệ tư tưởng”, phạm trù “tư tưởng quốc gia” không bị tranh cãi về mặt thực tế mà được phần lớn các nhà nghiên cứu công nhận tính hợp pháp và sự cân thiết tồn tại của nó. Nội dung cụ thể của phạm trù này được các nhà khoa học khác nhau giải thích khác nhau, cụ thể: tư tưởng quốc gia là sự thể hiện các lợi ích chung, sâu sắc nhất (L.I. Balkin), là quan điểm được thừa nhận chung thể hiện đường chu vi nào đó về các giá trị nền tảng nào đó (A.kiva), là sự nhận thức của mọi người về các lợi ích dân tộc và các mục tiêu xã hội (G.v. Osipov), là quan điểm triết học – lịch sử rộng lớn giải thích mang tính tư tưởng về sự tồn tại của dân tộc (V.N. Kotasonov) V.V.. Tuy có những điểm khác biệt trong các giải thích nói trên, nhưng tất cả những người nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, tư tưởng quốc gia chứa đựng các quan niệm về các lợi ích, các giá trị, các mục tiêu của sự phát triêh xã hội, mức độ hòa hợp của các lợi ích, các giá trị, các mục tiêu đó được quy định bởi các yếu tố văn hóa xã hội. Hơn nữa, tư tưởng quốc gia bao giờ cũng phản ánh các thành tựu xã hội có giá trị lịch sử trong quá trình phát triển của quốc gia đó.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tư tưởng quốc gia bao giờ cũng có tính chất tôn giáo. Chẳng hạn, V.N. Katasonov khẳng định rằng, sơ đồ thế giới quan của tư tưởng quốc gia bao giờ cũng thể hiện các quan niệm siêu hợp lý được dân tộc lĩnh hội trong toàn bộ lịch sử của mình về các quy luật thế giới và về tư tưởng của cái đang tồn tại, sự khẳng định cái cần thiết và tình yêu đối với tư tưởng đó, sự ảo thuật hóa tất cả các quan niệm cao nhất về sự tồn tại của công bằng và thần thánh. Sự tồn tại của dân tộc bắt đầu được xem xét từ quan điểm của trật tự thế giới và vũ trụ. Tư tưởng quốc gia bao giờ cũng gắn liền với kinh nghiệm tôn giáo của nhân dân và với việc tự quyết định mang tính nền tảng của nó trong lĩnh vực đó.
Hoàn toàn không có nghi ngờ rằng, các hệ tư tưởng quốc gia và các nhà nước trong quá khứ có đặc điểm đặc trưng là mang tính chất tôn giáo, bởi vì, khi luận chứng vai trò và các chức năng của mình quyền lực thế tục dựa vào uy quyền của giáo hội và xuất phát từ động cơ tôn giáo. Nhưng ở giai đoạn phát triển hiện nay, trừ một số quốc gia phương Đông, hệ tư tưởng không còn dựa vào các giá trị tôn giáo mà dựa vào các giá trị tốt đẹp chung của xã hội loài người, được thừa nhận chung đối với các giáo điều của các tôn giáo cụ thể. Hơn nữa, trên thế giới hiện nay, về mặt thực tế, không còn tồn tại các quốc gia độc quyền một tôn giáo, nơi mà dân cư ở đó chỉ theo một tôn giáo duy nhất nào đó.
Tư tưởng quốc gia không phải là bộ phận tinh thần thuần túy, bởi vì, chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước: các ưu tiên của chính sách đối nội và đối ngoại, tính chất và các định hướng của hoạt động bên trong đất nước và trên trường quốc tế, tức là sự phát triển của chính nhà nước, được hoạch định và thực hiện dựa trên và phù hợp với tư tưởng quốc gia và các nguyên tắc của nó. Tư tưởng quốc gia là một sức mạnh hiện thực, bởi vì, tư tưởng quốc gia được thê’ hiện và phát triêh trong hoạt động thực tiễn của các thể chế nhà nước và trong chính sách của nhà nưóc.
Trong sách báo nước ngoài, tư tưởng quốc gia, thông thường, được coi là một phương tiện được sử dụng để khắc phục các cuộc khủng hoảng của xã hội hiện đại, bởi vì, tuy có sự đa dạng khi đưa ra các định nghĩa về nó, nhưng về mặt thực tế, tất cả những người nghiên cứu đều khẳng định rằng, tư tưởng quốc gia cần phải chứa đựng các mục tiêu và các lợi ích quốc gia – dân tộc được tất cả mọi người nhận thức được. Một đất nước có thê’ vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế, tinh thân nghiêm trọng mà đất nước đó lâm vào chỉ khi tất cả các lực lượng chính trị, xã hội và toàn thể nhân dân ý thức được một cách sâu sắc các lợi ích dân tộc – quốc gia với tư cách là các giá trị cao nhất của xã hội và có được sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc dựa trên các giá trị đó. Thiết nghĩ rằng, việc lựa chọn con đường phát triển tối ưu của dân tộc Việt Nam cần phải dựa vào tư tưởng quốc gia của Việt Nam. Tư tưởng đó đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và được các thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước khẳng định trên thực tế. Tư tưởng đó được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp của Việt Nam (các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013).
Cần khẳng định rằng, tuy đang được tranh luận, nhưng phạm trù “hệ tư tưởng quốc gia” có quyền tồn tại là đang tồn tại trên thực tế. Hơn nữa, là dấu hiệu tất yếu của nhà nước, hệ tư tưởng quốc gia bao giờ cũng đòi hỏi phải có các tư tưởng nào đó luận chứng về các giá trị và các mục tiêu nền tảng của xã hội, chứng minh về tính phù họp của các lợi ích mang tính bản chất sâu sắc nhất của xã hội và của cá nhân. Hệ tư tưởng quốc gia có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau, có thể là hữu hình, có cấu trúc nhất định hoặc là vô hình, nhất quán hoặc mâu thuẫn… Tính đa dạng về các phương diện và hình thức thể hiện đó nói lên tính phức tạp trong việc làm sáng tỏ hệ tư tưởng và cả tính nghi ngờ về sự tồn tại của nó. Nhưng hệ tư tưởng là thuộc tính tất yếu của mọi nhà nước.
Ở nước ta, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quy định này của Hiến pháp có ý nghĩa nguyên tắc, mang tính quyết định đối với việc xây dựng hệ tư tưởng quốc gia Việt Nam.
5. Kết thúc vấn đề
Hệ tư tưởng pháp luật Việt Nam được thể hiện thông qua các bản Hiến pháp của Việt Nam, đặc biệt được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013. Hệ tư tưởng đó bao gồm những tư tưởng sau đây: tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tư tưởng về quyền con người và quyền công dân, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tư tưởng về dân chủ, tư tưởng về công bằng, tư tưởng về văn minh, tư tưởng về nhân đạo, tư tưởng về tự do, tư tưởng về chính quyền địa phương và các tư tưởng khác.
Hệ tư tưởng nói trên là nền tảng tư tưởng đối với việc nhận thức, xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật ở nước ta.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn).