1. Khái niệm mua sắm công
Theo quy tắc về mua sắm công đã được thông qua cả ở cấp quốc gia và cấp quốc tế. Bản Thoả thuận Marrakesh thiết lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bao gồm cả Hiệp định Mua sắm Chính phủ đa biên. Liên minh châu Âu (EU), với tư cách là bộ phận của thị trường nội khối, đã chấp thuận những bản chỉ dẫn toàn diện trong lĩnh vực này. Ngoài ra, các hiệp định thương mại khu vục như Công ước Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu (EFTA), và các Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs) như EFTA-FTAs với các nước thứ ba cũng có những điều khoản về mở của thị trường mua sắm công.
Không phải tất cả các nước đều là thành viên của các hiệp định quốc tế. Tuy nhiên, các nước có thể đã chấp thuận luật lệ quốc gia mà ít hay nhiều đều tuân thủ các quy tắc quốc tế.
Lĩnh vực và phạm vi của các hiệp định quốc tế có thể khác nhau. Ví dụ, Hiệp định Mua sắm Chính phủ của WTO (GPA) điều chỉnh việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ và giao thầu công trình bởi các cơ quan công quản trung ương và dưới cấp trung ương. Những mua sắm bởi các nhà thầu trong lĩnh vực công ích cũng được gộp vào nhưng ở mức độ ít hơn so với các chỉ dẫn của Cộng đồng châu Âu (EC) và trong Hiệp định EEA. Mặt khác, Hiệp định FTA của EFTA với những nước Trung và Đông Âu lại có những điều khoản về tự do hoá thị trường mua sắm công chỉ đối với việc mua sắm hàng hoá tiến hành với những cơ quan chính phủ cấp trung ương.
2. Nguyên nhân vì sao cần quy tắc riêng cho mua sắm công
Mua sắm công và cạnh tranh được gắn kết với nhau. Thực tiễn mua sắm công ưu đãi một số doanh nghiệp có thể có tác dụng tiêu cực đối với cạnh tranh và làm biến dạng buôn bán theo một kiểu giống như hành vi “ưu tiên” (thực tế là hạn chế kinh doanh và lạm dụng vị trí chủ đạo) hoặc có viện trợ quá mức của Nhà nước.
Những quy tắc mua sắm công phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Chúng đảm bảo mặt bằng sân chơi cho các nhà thầu quan tâm tới việc cung cấp hàng hoặc dịch vụ cho các cơ quan công quản. Do kết quả của việc tăng độ cạnh tranh, các nguồn lực sẽ được phân bổ hiệu quả hơn và ngân sách sẽ được sử dụng kinh tế hơn. Những chính sách quốc gia mua sắm hạn chế cạnh tranh và dẫn tới chi phí cao hơn vì những chính sách đó không đếm xỉa tới những khác biệt về giá giữa các nước và những hiệu quả dài hạn của việc mở cửa thị trường.
Mua sắm công chiếm một phần đáng kể GDP ở đa số các nước châu Âu và các nơi khác. Chẳng hạn, ước tính tổng trị giá mua sắm bị chi phối bởi các nguyên tắc của cộng đồng, các quy tắc, hoặc các hướng dẫn, là 1.005 triệu EUR, năm 1998, chiếm 13,5% GDP.
Nếu các chính phủ được phép giữ thị trường mua sắm khép kín không có cạnh tranh, do vậy bỏ quên việc quản lý kinh tế có quy củ thì những lợi ích thu được từ tự do hoá thương mại sẽ có thể bị tổn hại nghiêm trọng.
3. Những yếu tố chủ yếu của các quy tắc mua sắm công
Trong mở thầu công khai của thủ tục đấu thầu, tất cả các doanh nghiệp đều được tham gia dự thầu, trong khi ở đấu thầu hạn chế chỉ một số các nhà thầu, nhà cung cấp tiềm năng đã được lựa chọn một cách khách quan mới có quyền dự thầu. Trong những hoàn cảnh đặc biệt và theo những điều kiện chặt chẽ, hợp đồng thầu có thể được ký kết trên cơ sở tham vấn và đàm phán với một nhà thầu mà không mở thầu.
Những điều khoản về sự minh bạch cùng với các điều khoản khác thường quy định những đòi hỏi tối thiểu về việc công bố các thông báo gọi thầu và thông báo thắng thầu. Mục đích là cung cấp cho tất cả các nhà thầu tiềm năng thông tin cần thiết liên quan tới việc mở thầu và kết quả của thủ tục thầu.
Việc sử dụng những quy cách kỹ thuật không phân biệt đối xử ngụ ý rằng mọi sản phẩm và dịch vụ sẽ mua sắm phải được làm rõ các đặc tính phù hợp với những tiêu chí khách quan. Những tiêu chí này, nếu có thể, phải căn cứ vào các đòi hỏi về hiệu quả hoặc dựa trên những tiêu chuẩn thường được sử dụng. Nên tránh những dẫn chiếu tới những thương hiệu, tên, thiết kế hoặc kiểu cách cụ thể. Tuy vậy, nhà đương cục ký kết không bị ngăn cấm việc tìm mua những mặt hàng phù hợp với thiết bị đang được sử dụng.
Những tiêu chí để chọn người dự thầu và ký kết hợp đồng thầu cần phải khách quan. Những tiêu chuẩn cần đuợc nêu rõ trong hồ sơ gọi thầu và nhà thầu nào đáp ứng tốt nhất những tiêu chí đó sẽ được giao thầu. Thông thường, hợp đồng thầu được ký kết trên cơ sở hoặc là giá thấp nhất hoặc là đơn thầu có ưu thế nhất về kinh tế.
Trường hợp này có thể bao gồm các nhân tố như giá, chi phí vận hành hoặc chi phí hiệu quả, phẩm chất, giá trị kỹ thuật, dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật hậu mãi, và sự an toàn ổn định trong cung cấp.
Những điều khoản về những thủ tục thử thách làm tăng sự tôn trọng các quy tắc mua sắm công. Thủ tục thử thách cho phép các nhà dự thầu không thắng thầu phải thử thách với quyết định giao thầu và có thể bao gồm việc sử dụng những giải pháp tạm thời (tạm ngưng thủ tục) và/hoặc bồi thường tổn thất (người bị thách thức được bồi thường).
Những hiệp định quốc tế với những quy tắc về mua sắm công đảm bảo sự cạnh tranh và đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn vốn công cộng. Tuy nhiên, việc áp dụng những quy tắc này, đặc biệt là những quy tắc liên quan tính trong sáng, làm phát sinh những chi phí hành chính cao đối vói các cơ quan công cộng. Nhằm mục đích đảm bảo lợi ích phải lớn hơn chi phí, các thoả ước quốc tế thường định ra những trị giá ngưỡng. Do vậy, các quy tắc sẽ chỉ được áp dụng khi mà các đơn hàng mua sắm công có giá trị vượt một giới hạn nào đó.
4. Tính minh bạch trong mua sắm công
Nguyên tắc công khai và minh bạch trong mua sắm công phải được thực hiện trong toàn bộ quy trình mua sắm, từ giai đoạn tiền đấu thầu đến trao hợp đồng, bảo đảm mọi nhà thầu đều bình đẳng và có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận thông tin, tránh tình trạng bên mời thầu che đậy thông tin nhằm hạn chế số nhà thầu hoặc thiên vị nhà thầu nào đó trong việc tiếp cận thông tin.
Riêng đối với Liên minh châu Âu (EU), sự minh bạch trong mua sắm công được bảo đảm thông qua việc đăng tải thông tin: Thông báo kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu và thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu trên tờ phụ trương về mua sắm công của EU (OJ) và trên trang đấu thầu điện tử TED (phiên bản điện tử của OJ). Quy định này áp dụng với tất cả hợp đồng có giá trị trên 5,225 triệu Eur đối với hợp đồng xây lắp, 209 nghìn Eur đối với hợp đồng mua sắm hàng hóa và dịch vụ.
OJ được xuất bản lần đầu vào ngày 30/12/1952 với 2 sêri chính là sêri L (bao gồm thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật của EU) và sêri C (cung cấp các báo cáo, thông báo, phán quyết của tòa án như Tòa án Công lý châu Âu và Tòa sơ thẩm). Ngoài ra còn sêri S, bao gồm các thông báo mời thầu và các thông tin khác liên quan đến quy định mua sắm công của EU.
Đối với các thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu, việc công khai giá trúng thầu sẽ là thông điệp phản ánh mặt bằng giá cả trên thị trường. Vì vậy, bất kỳ sự bất thường nào về giá trúng thầu, như giá quá cao hoặc quá thấp, cũng có thể gây nghi ngờ về khả năng thực thi và tính hiệu quả của dự án.
Như Công ty đường sắt Virgin Train của Anh đã từng khiếu nại kết quả đấu thầu liên quan đến hợp đồng vận hành khai thác tuyến đường sắt West Coast. Là 1 trong 4 nhà thầu tham gia đấu thầu hợp đồng nói trên, Virgin Train không trúng thầu do giá dự thầu thấp hơn gần 1 tỷ Bảng so với giá dự thầu của Công ty First West Coast – doanh nghiệp trúng thầu. Virgin Train đã gửi đơn khiếu nại lên chủ đầu tư là Bộ Giao thông vận tải Anh (DfT) với lý do mức tăng trưởng hành khách và doanh thu mà First West Coast đưa ra là không khả thi trong bối cảnh kinh tế khó khăn, trong khi khoản dự phòng mà công ty này đưa ra lại quá thấp so với mức độ rủi ro của dự án. Sau khi xem xét lại, DfT đã phải thừa nhận sai sót ngay từ khâu lập hồ sơ mời thầu và tuyên bố hủy kết quả đấu thầu nói trên, đồng thời chấp nhận khoản tiền bồi thường 40 triệu Bảng cho các nhà thầu đã tham gia đấu thầu hợp đồng này. Theo báo cáo đánh giá mua sắm công được EU thực hiện lần đầu năm 2012, sự minh bạch trong mua sắm công của khối đã liên tục được nâng cao qua việc thực thi nghiêm chỉnh các quy định pháp luật.
5. Mua sắm công theo quy định của Pháp luật Việt Nam so với các cam kết liên quan
Pháp luật về mua sắm công của Việt Nam chủ yếu thuộc hệ thống pháp luật về đấu thầu. Trong lĩnh vực mua sắm công, cho đến nay, chúng ta chưa bị ràng buộc bởi bất kỳ một cam kết quốc tế có hiệu lực nào. Tuy nhiên, kết quả rà soát chi tiết pháp luật Việt Nam với các cam kết trong Hiệp định EVFTA về mua sắm công do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện cho thấy, pháp luật đấu thầu Việt Nam đã tương thích với phần lớn các cam kết.
Điều này theo lý giải của các chuyên gia là hoàn toàn hợp lý và có thể giải thích được bởi lẽ với những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, các cam kết lời văn của Chương Mua sắm công trong EVFTA được xây dựng hoàn toàn dựa theo Hiệp định về mua sắm công của WTO (GPA), và vì vậy không mới với Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đã là quan sát viên của Hiệp định này từ giai đoạn đầu tiên của quá trình đàm phán EVFTA.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam về đầu thấu vừa trải qua một đợt sửa đổi lớn, với Luật Đấu thầu ban hành vào năm 2013 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2014. Thời điểm này, Việt Nam đã trở thành quan sát viên của GPA từ tháng 12/2012, đồng thời đang trong giai đoạn đàm phán TPP và EVFTA. Vì vậy, để chuẩn bị cho quá trình hội nhập sâu hơn, Việt Nam đã chủ động đưa những nguyên tắc cơ bản của GPA vào Luật Đấu thầu 2013.
Phần lớn các cam kết mua sắm công của EVFTA mà pháp luật đấu thầu Việt Nam đã tuân thủ là các nghĩa vụ mang tính nền tảng đã trở thành thông lệ quốc tế chung trong đấu thầu (như các khái niệm, các nguyên tắc cơ bản liên quan tới hồ sơ mời thầu…) hoặc các nghĩa vụ chung về minh bạch, cạnh tranh trong trình tự, thủ tục đấu thầu (như các vấn đề liên quan tới thông báo mời thầu, thông tin sau khi trao hợp đồng…).
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).