1. Khả năng chuyển đổi

Khả năng chuyển đổi có thể định nghĩa là quyền giữ bất kỳ đồng tiền nào và đổi hay chuyển đồng tiền đó sang bất kỳ đồng tiền nào khác nhằm mục đích giải quyết tài khoản vãng lai hoặc các giao dịch về von.

Rõ ràng là những hạn chế thanh toán, như được xem xét tại đây, có vấn đề đụng chạm tới khả năng chuyển đổi.

Khả năng chuyển đổi của đồng tiền không chỉ là vấn đề quyền cho phép hoặc ngăn cấm những hạn chế, mà còn là khả năng, với cương vị một quốc gia, ban cho những quyền này. Nó cũng còn là vấn đề của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế vĩ mô.

 

2. Hạn chế thanh toán

Trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) có những quy định ngăn cấm việc hạn chế thanh toán và chuyển tiền. Đối với một nước bị lôi cuốn vào những quan hệ buôn bán tự do như vậy, thì điều này có nghĩa là nước đó sẽ đảm bảo khả năng chuyển đổi của đồng tiền nước mình phục vụ những giao dịch tài khoản vãng lai, nghĩa là khả năng chuyên đổi của tài khoản vãng lai.

Thực hiện được khả năng chuyển đổi của tài khoản vãng lai là một công việc chẳng dễ dàng. Nếu như điều này được luật pháp công nhận, trong khi những điều kiện tối thiểu cho sự cân bằng bên ngoài của kinh tế vĩ mô lại chưa đáp ứng đựơc, thì khả năng chuyển đổi không duy trì được. Nước này sẽ phải đối diện với tình trạng xấu đi rõ rệt trong vị thế các tài khoản vãng lai, với sức ép giảm giá đáng kể tỉ giá ngoại hối, hoặc với sự giảm sút mạnh về dự trữ tịnh bằng ngoại tệ. Nếu như thêm vào đó lại ngăn cấm những hạn chế đối với tín dụng ngắn hạn và trung hạn, tình trạng mất cân đối sẽ có thể trầm trọng lên bởi việc tăng vọt nợ ngắn hạn và trung hạn.

Lý do cơ bản của tình hình đó có thể là quốc gia này thiếu năng lực cạnh tranh quốc té, cho nên xuất khẩu không cân đối được nhập khẩu (nghịch sai tài khoản vãng lai) dẫn tới tăng quá đáng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu (sức ép giảm đối vói tỷ giá ngoại hối hoặc giảm dự trữ ngoại tệ tuỳ thuộc vào chính sách tỉ giá của nước này) bị làm trầm trọng thêm do vay nước ngoài quá nhiều (nợ tăng lên).

Tình hình đó sẽ không duy trì được. Cách thức duy nhất để giải quyết ngay trong thời hạn ngắn mà không hạn chế thanh toán là nên đê cho tỉ giá ngoại hoi tăng vọt, điều này có nghĩa là phá giá đồng tiền quốc gia.

Về mặt dài hạn, đất nước này cần phải điều chỉnh lại toàn bộ những yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ mô như lãi suất tiền tiết kiệm, có thể là công nợ quốc gia, năng suất lao động, và khái quất hơn, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Một cách khác để giải quyết tình hình đó theo kiểu ngắn hạn, có thể là làm giảm những nghĩa vụ công nợ quốc tế bằng cách hoặc là đưa ra những hạn chế thanh toán hoặc hạn chế ngoại hối, hoặc những biện pháp hạn chế thương mại.

Tuy nhiên, những biện pháp này sẽ không giải quyết được vấn đề, mà chỉ kéo dài thời gian để những giải pháp khác được thiết kế nhằm khôi phục những cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản có thể phát huy tác dụng.

Sẽ chẳng cần bàn bạc thêm vấn đề khả năng chuyên đổi và những điều kiện kinh tế tiền đề nữa. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng mặc dù những điều kiện thanh toán là cực kỳ sát hợp trong khung cảnh một Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) bởi ảnh hưởng tiềm tàng của chúng đối với những điều kiện buôn bán, nhưng chúng còn liên quan rộng hơn tới tình hình nền kinh tế chung của những nước nằm trong Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và không thể nào giải quyết trọn vẹn trong bối cảnh cụ thể của chính sách thương mại.

 

3. Thanh toán, thanh toán quốc tế 

Thanh toán có thể hiểu đó là việc chuyển giao các phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Tiền là phương tiện thực hiện trao đổi hàng hóa, đồng thời là việc kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Sự vận động của tiền tệ có thể tách rời hay độc lập tương đối với sự vận động của hàng hoá.

Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền không chỉ sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra ngoài phạm vi trao đổi như nộp thuế, trả lương, đóng góp các khoản chi dịch vụ … Lưu thông không dùng tiền mặt là các quá trình tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không trực tiếp bằng tiền mặt mà thực hiện bằng cách trích chuyển trên các tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc bù trừ lẫn nhau giữa những người phải thanh toán và những người thụ hưởng.

Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường và được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính đối nội cũng như đối ngoại. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là do yêu cầu phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển càng cao, khối lượng hàng hoá trao đổi trong nước và ngoài nước càng lớn thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.

Xét về mặt lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động của tiền tệ.

Ở đây, tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá hình thức giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ có quá trình chứa đựng những công nghệ tinh vi và phức tạp. Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán có thể sử dụng tiền đủ giá (vàng) hoặc dấu hiệu giá trị.

Trở ngại chính của tiền giấy và tiền kim loại là chúng dễ bị đánh cắp và có thể tốn nhiều chi phí vận chuyển; để khắc phục nhược điểm này, cùng với bước phát triển của hệ thống thanh toán là sự ra đời của séc trong hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Điều này cải tiến một bước rất quan trọng trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán. Chúng có thể được sử dụng bù trừ trong thanh toán, giảm chi phí vận chuyển và đặc biệt là nó an toàn, ghi theo số lượng tiền tuỳ ý. Tuy nhiên, nó có hai nhược điểm cơ bản: thanh toán chậm do không được ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ hưởng và chi phí in ấn, quản lý còn cao.

Thanh toán quốc tế là thanh toán giữa các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngoài. Việc thanh toán này được thực hiện chủ yếu bởi các ngân hàng và gắn liền với việc đổi tiền theo thị giá ngoại hối.

 

4. Bản chất và hình thức thanh toán quốc tế

Việc thực hiện các khu định cư quốc tế diễn ra thông qua các tài khoản đặc biệt sử dụng các phân khu ngân hàng nước ngoài hoặc tài khoản ngân hàng mở (nostro) trong bất kỳ ngân hàng nước ngoài hoặc tài khoản phóng viên hiện tại (loro) nào cho các khu định cư và dòng vốn.

Đối với các Tổ chức và hình thức thanh toán trong thương mại quốc tế khá đa dạng. Theo quy định, tất cả các khoản thanh toán quốc tế được thực hiện bằng các loại tiền tệ chuyển đổi, nghĩa là bằng các loại tiền tệ quốc gia dẫn đầu trong ý nghĩa kinh tế của các quốc gia.

Trong thế giới tài chính hiện đại, nghĩa vụ thanh toán bằng vàng đã biến mất trong những trường hợp đặc biệt, nhưng các quốc gia có thể bán một phần dự trữ vàng của mình để có được tiền tệ chuyển đổi. Do đó, vàng vẫn là nền tảng đảm bảo cho tất cả các giao dịch quốc tế.

Thông thường, các khu định cư quốc tế được điều chỉnh bởi luật tiền tệ của các quốc gia liên quan đến quan hệ thương mại, các điều khoản hợp đồng, quy tắc thương mại quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước. Đồng thời, có nhiều loại thanh toán không dùng tiền mặt theo hợp đồng trong thực tiễn kinh tế thế giới, giúp sử dụng hiệu quả và linh hoạt dự trữ tài chính của các quốc gia, để thúc đẩy phát triển kinh tế, áp dụng các phương thức thanh toán tiền tệ quốc tế khác nhau.

 

5.  Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế

Về vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế ta có thể nói đến dự tác động (vai trò) của nó đối với những đối tượng sau đây: 

Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại

Thanh toán quốc tế là khâu then chốt, cuối cùng để khép kín một chu trình mua bán hàng hoá hoạc trao đổi dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau.

Thanh toán quốc tế là cầu nối trong mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Việc tổ chức Thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, chính xác sẽ làm cho các nhà sản xuất yên tam và đẩy mạnh hoạt động xuất – nhập khẩu của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương.

Đồng thời, hoạt động Thanh toán quốc tế góp phần hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý các đối tác xa nhau nên việc tìm hiểu các khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua gặp nhiều khó khăn. Nếu tổ chức tốt công tác Thanh toán quốc tế thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hàng hoá xuất – nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.

Chúng ta có thể nói rằng kinh tế đối ngoại có mở rộng được hay không một phần nhờ vào hoạt động thanh toán quốc tế có tốt hay không. Thanh toán quốc tế tốt sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá.

Đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.

Đối với hoạt động của Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế mà nhất là hình thức tín dụng chứng từ có vị trí quan trọng. Nó không chỉ thuần tuý là dịch vụ mà còn được coi là một mặt hoạt động không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.

Trước hết, hoạt động thanh toán quốc tế giúp Ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu giao dịch quốc tế. Trên cơ sở đó, Ngân hàng phát triển thêm quy mô, tăng thêm nguồn thu nhập, tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường.

Hơn nữa, thông qua hoạt động Thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng được nguồn vốn huy động tạm thời do quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân có quan hệ Thanh toán quốc tế qua ngân hàng.

Bên cạnh đó, nó giúp Ngân hàng thu được một nguồn ngoại tệ lớn từ đó Ngân hàng có thể phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh và nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế khác.

Và hoạt động thanh toán quốc tế giúp Ngân hàng tăng tính thanh khoản thông qua lượng tiền ký quỹ.Mức ký quỹ phụ thuộc vào độ tin cậy, an toàn của từng khách hàng cụ thể. Song xét về tổng thể thì các khoản ký quỹ này phát sinh một cách thường xuyên và ổn định.Vì vậy trong thời gian chờ đợi thanh toán, ngân hàng có thể sử dụng các khoản này để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết, thậm chí có thể sử dụng để kinh doanh, đầu tư ngắn hạn để kiếm lời; hoạt động thanh toán quốc tế còn giúp Ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ sở nâng cao uy tín của Ngân hàng.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).