1.1. Tình hình ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự từ trước tới nay
1.1.1.Tình hình ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương
Trước khi Luật Tương trợ tư pháp 2007 được ban hành
Từ năm 1980 đến năm 2007, trong lĩnh vực dân sự và thương mại, Việt Nam đã ký được 15 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự với nước ngoài, chủ yếu là các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây (tới nay, Hiệp định ký với CHDC Đức đã hết hiệu lực).
Cụ thể là, trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992, Việt Nam đã ký được 06 Hiệp định và kể từ khi ban hành Hiến pháp 1992 đến trước khi ban hành Luật Tương trợ tư pháp 2007, Việt Nam ký thêm được 09 Hiệp định Tương trợ tư pháp với các nước.[1]
Nội dung của các Hiệp định được ký trong hai giai đoạn này về cơ bản là giống nhau. Các Hiệp định này đều điều chỉnh một cách tổng thể hai mảng quan hệ, đó là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và phương pháp thống nhất các quy tắc lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết các xung đột pháp luật và quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự, trong một số Hiệp định còn giải quyết cả vấn đề dẫn độ hoặc chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 1993-2007, chỉ có những Hiệp định ký kết với nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây thì nội dung, phạm vi và hình thức Hiệp định không khác nhiều so với các Hiệp định mà Việt Nam đã ký trong giai đoạn trước. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện một xu thế mới, đó là nội dung của một số Hiệp định cũng không còn rộng và tương tự như nội dung của các Hiệp định đã ký trong giai đoạn đầy tiên. Cụ thể là, các Hiệp định mà Việt Nam đã ký với Pháp và Trung Quốc có phạm vi nội dung đơn giản hơn, chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp tác tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp của hai nước mà không quy định về vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết các xung đột pháp luật và quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp. Đây cũng là xu thế ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại giữa các nước trong giai đoạn tiếp theo.
.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
Sau khi Luật Tương trợ tư pháp 2007 được ban hành
Trước khi Luật Tương trợ tư pháp 2007 được ban hành hai năm, trong cả hai Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị liên quan đến ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2010 (Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005) và Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2010 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005) vai trò, ảnh hưởng và tầm quan trọng của việc tăng cường và mở rộng việc ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp đều được nhấn mạnh ở cả hai Văn kiện này.
Cùng với việc ban hành hai Nghị quyết của Bộ Chính trị năm 2005, việc ra đời Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là một bước ngoặt đánh dấu sự phát triển cả về nhận thức và trình độ phát triển của chuyên ngành luật tư pháp quốc tế ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy việc đàm phán, ký kết hiệp b bbn định tương trợ tư pháp với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, phù hợp với chính sách đối ngoại rộng mở nhằm thực hiện chủ trương Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước.
Sau khi Luật Tương trợ tư pháp có hiệu lực, trong hai năm 2008 – 2009, cùng với Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đẩy mạnh việc đàm phán ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, với tư cách là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì đề xuất việc đàm phán, ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp cũng từng bước đẩy mạnh việc đàm phán ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự với nhiều quốc gia trên thế giới, cụ thể như sau:
Trong năm 2008 và 2009, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ và Bộ Công an tiến hành đàm phán một số Hiệp định: Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Việt Nam và Anh (đã đàm phán vòng 1 tại Hà Nội vào cuối năm 2008, nay đang chuẩn bị các nội dung và thủ tục cần thiết để đàm phán vòng 2), Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc (đã đàm phán vòng 1 tại Hà Nội vào cuối năm 2009, nay đang chuẩn bị thẩm định để đàm phán Vòng 2). Hiện nay, Bộ Tư pháp đang chuẩn bị các điều kiện, thủ tục cần thiết để triển khai việc sửa đổi các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại với Séc và một số nước XHCN trước đây như Ba Lan, Xlô-va-kia, đàm phán Hiệp định TTTP về dân sự và thương mại với Cam-pu-chia, Ka-zắc-xtan, Ấn Độ trong năm 2010.
Trong năm 2010, Việt Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại với An-giê-ri nhân chuyến thăm An-giê-ri của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vào giữa tháng 4 năm 2010 và ký Thỏa thuận tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam. Tới nay, Chính phủ Việt Nam đã có Tờ trình Chủ tịch nước phê chuẩn Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa Việt Nam và An-giê-ri và hoàn tất các thủ tục nội bộ để triển khai thực hiện Thỏa thuận tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam.
Đánh giá một cách sơ bộ cho thấy các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký trong thời gian qua hoặc đang trong quá trình đàm phán đều có nội dung phù hợp với các quy định của Hiến pháp, Luật Tương trợ tư pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam; việc đàm phán, ký kết được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, nguyên tắc quy định tại Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
Xuất phát từ xu thế chung trong việc “đơn giản hóa” và có thể nhanh chóng tạo sự đồng thuận giữa các quốc gia ký kết, trong thời gian gần đây, các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại được xây dựng theo hướng chỉ điều chỉnh các vấn đề mang tính nguyên tắc, thủ tục trong hợp tác tương trợ tư pháp và dẫn chiếu đến pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung của quốc gia cùng ký kết, chứ không đề ra những quy phạm xung đột thống nhất để giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền như các Hiệp định mà đã ký với các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn trước đây. Xu hướng ký kết Hiệp định tương trợ theo từng lĩnh vực chuyên ngành (hoặc chỉ chuyên về hình sự, dẫn độ, hoặc chuyên về tố tụng dân sự), không quy định xen kẽ, lồng ghép nhiều lĩnh vực với nhau, đang được các quốc gia và các tổ chức quốc tế ngày càng chú trọng.
Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại quy định trong các Hiệp định đã ký kết hoặc các dự thảo Hiệp định đang được đàm phán giữa Việt Nam và các nước phù hợp với Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp. Cụ thể, bao gồm các nội dung sau:
(1) tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự;
(2) triệu tập người làm chứng, người giám định;
(3) thu thập, cung cấp chứng cứ và các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự;
(4) trao đổi tài liệu, thông tin giữa các cơ quan tư pháp;
(5) công nhận và thi hành các bản án, quyết định của Toà án nước ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài.
Do nội dung thứ năm này là một nội dung rất quan trọng, góp phần thực hiện một cách triệt để, có kết quả và góp phần làm cho hợp tác giữa các cơ quan tư pháp của các nước trở nên ý nghĩa hơn, đáp ứng được quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong nước cũng như yêu cầu thực tế của các công dân và pháp nhân hơn; đồng thời do nội dung này đã có tiền lệ được quy định tại tất cả các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký với các nước khác trước đây, cho nên trong quá trình đàm phán gần đây, phía Việt Nam đã kiên quyết đề nghị bổ sung thêm phần quy định này vào các dự thảo Hiệp định tương trợ tư pháp mặc dù phía đối tác chưa thực sự sẵn sàng và phạm vi của Luật Tương trợ tư pháp 2007 không quy định nội dung công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án và quyết định của trọng tài nước ngoài.
1.1.2 Tình hình ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp đa phương
Có thể nhận thấy, trong 5 năm trở lại đây, Việt Nam đã rất tích cực hoạt động nhằm nâng cao vị thế của mình trong cộng đồng ASEAN, trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương và cả trên bình diện toàn cầu bằng cách chủ động tổ chức hoặc tham gia các diễn đàn, hội nghị và chủ động đưa ra những đề xuất, sáng kiến trong việc nâng cao hiệu quả hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại, đặc biệt là đưa ra những đề xuất đối với các thành viên ASEAN.
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay, Việt Nam và các nước trong khu vực vẫn chưa coi trọng đúng mức cơ chế hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại hiện nay giữa Việt Nam và hầu hết các nước trong khối ASEAN cũng như giữa các nước trong khối với nhau vẫn chỉ tiến hành trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại đối với từng vấn đề cụ thể. Việt Nam vẫn chưa ký kết hoặc tham gia một công ước quốc tế nào về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
1.1.3 Những vướng mắc, khó khăn hiện nay và những nguyên nhân trở ngại của công tác đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự
– Chưa có đánh giá chi tiết về nhu cầu đàm phán, ký kết điều ước quốc tế. Phía Việt Nam chưa thực sự chủ động đề xuất đàm phán, ký kết điều ước quốc tế mà thường thì các đề xuất về việc đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp xuất phát từ đề nghị của phía nước ngoài.
– Nhận thức, và trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ về pháp luật quốc tế nói chung, tư pháp quốc tế nói riêng và kỹ năng đàm phán còn hạn chế nhiều so với trình độ cán bộ của các nước phát triển. Số lượng cán bộ đủ năng lực chuyên môn và ngoại ngữ rất hiếm.
1.1.4 Số liệu thống kê và tình hình thực hiện các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự nói riêng và ủy thác tư pháp về dân sự nói chung trong những năm gần đây
Theo thống kê tại Báo cáo tương trợ tư pháp của Bộ Tư pháp, trong thời gian gần đây, mỗi năm Bộ Tư pháp đã nhận và chuyển trên dưới 3.000 hồ sơ ủy thác tư pháp đến các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước ngoài để giải quyết; trong đó, hơn 80% là các hồ sơ do toà án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đề nghị uỷ thác ra nước ngoài; khoảng 20% còn lại là số hồ sơ ủy thác do các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài chuyển đến, chủ yếu là từ các nước Ba Lan, Séc, Pháp, Hàn Quốc. Trong số các hồ sơ của Việt Nam đề nghị uỷ thác tư pháp ra nước ngoài thì hồ sơ do Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gửi đến chiếm đa số (khoảng trên 65%) tiếp sau đó là Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Long, Tây Ninh.
Trong số đó, những nước được yêu cầu thực hiện nhiều hồ sơ ủy thác tư pháp thường là các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam như: Hoa Kỳ, Ôx-trây-lia, Canada, CHLB Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài Loan). Số lượng hồ sơ ủy thác tư pháp giữa Việt Nam và các nước đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp chiếm tỷ lệ không nhiều, chỉ vài trăm bộ trên tổng số trên dưới 3000 bộ hồ sơ một năm, chủ yếu là Séc, Ba Lan, Pháp.
Nhìn chung, việc thực hiện các uỷ thác tư pháp về dân sự (với các nước đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp cũng như với các nước chưa ký kết Hiệp định) trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Luật Tương trợ tư pháp đã dần dần đi vào nền nếp nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Song do còn quá nhiều nước chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam nên yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp còn chậm, bị ách tắc nhiều.
1.2. Tác động về mặt kinh tế và xã hội
1.2.1. Đối với các trường hợp có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp
Qua các con số thống kê tình hình thực hiện ủy thác tư pháp trong những năm gần đây có thể cho thấy rõ hiệu quả và lợi ích nhìn thấy được của việc đạt được các cam kết quốc tế trong tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại. Mặc dù chưa có một công trình nghiên cứu nào đánh giá, lượng hóa cụ thể được những ảnh hưởng tích cực của việc ký kết điều ước quốc tế đối với đời sống kinh tế xã hội, song một số lợi ích và hiệu quả có thể nhìn thấy được phải kể đến như sau:
– Lòng tin của các công dân, pháp nhân vào hệ thống tư pháp được cải thiện do các vụ việc, tranh chấp về dân sự có nhiều cơ hội hơn để được xem xét một cách công bằng, khách quan cho tất cả các bên đương sự và cho những người có quyền và lợi ích liên quan, cho dù người đó cư trú ở trong hay ngoài nước, bản án đã được tòa án trong nước tuyên được bảo đảm được công nhận và thi hành ở nước ngoài;
– Các cơ quan tư pháp của Việt Nam xác định được đầu mối rõ ràng để liên hệ, yêu cầu các cơ quan tư pháp của nước ngoài hỗ trợ tiến hành công tác xét xử;
– Quy trình thực hiện ủy thác tư pháp rõ ràng hơn, đơn giản hơn, rút ngắn được thời gian thực hiện, rút bớt được nhiều giai đoạn, nhiều thủ tục hơn (được miễn hợp pháp hóa giấy tờ, được gửi trực tiếp qua cơ quan trung ương chứ không phải đi vòng qua cơ quan đại diện ngoại giao, được miễn một số loại phí thực hiện ủy thác, ngôn ngữ thực hiện được xác định rõ ràng từ trước…).
1.2.2. Đối với các trường hợp chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp
Đối với các nước chưa ký với Việt Nam Hiệp định tương trợ tư pháp, việc thực hiện các tương trợ tư pháp về dân sự được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và sau này được thay thế bằng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đều quy định nguyên tắc Toà án Việt Nam sẽ hợp tác với toà án nước ngoài trong việc thực hiện tương trợ tư pháp trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Do đó, việc Toà án và các cơ quan tư pháp khác của Việt Nam thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế theo yêu cầu của phía nước ngoài, kể cả khi không có điều ước quốc tế là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ trước hết là quyền lợi của công dân Việt Nam trong vụ việc do phía nước ngoài yêu cầu. Tuy nhiên, việc thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế theo yêu cầu của Việt Nam hay của nước ngoài đối với trường hợp không có điều ước quốc tế, gặp phải nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là bất lợi cho các công dân và cơ quan nhà nước Việt Nam, gây ra những ảnh hưởng không nhỏ về mặt kinh tế và xã hội.
– Tốn kém về mặt kinh tế và thời gian cho cả người dân và các cơ quan nhà nước do thủ tục vòng vèo, qua nhiều công đoạn;
– Do số yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam gửi đến những nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thường nhiều hơn số yêu cầu phía nước ngoài yêu cầu gửi tới Việt Nam nên việc thực hiện chỉ trông chờ vào sự may rủi, thiện chí của cơ quan có thẩm quyền của nước đó, không có cơ chế để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cam kết thực hiện đầy đủ và kịp thời;
– Và còn nhiều những hạn chế, bất lợi khác nếu không có điều ước quốc tế.
Dưới đây là hai trong số rất nhiều ví dụ về những ảnh hưởng không có lợi đến đời sống kinh tế, xã hội của người dân do Việt Nam chưa ký điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp với nước ngoài:
Ví dụ thứ nhất: Về tình hình thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế về dân sự trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh – Đương sự lãnh đủ Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế của cả nước, tình hình kinh tế, xã hội luôn phát triển, hợp tác kinh tế, đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều hơn, trong bối cảnh đó các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài cũng tăng lên. Để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật thì tương trợ tư pháp là một công cụ hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp đó. Năm 2009, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 3.622 vụ án có yếu tố nước ngoài (trong đó dân sự 1.367, hôn nhân gia đình 1.106, kinh doanh thương mại 1.227 và lao động 22). Hoạt động tương trợ tư pháp trong các vụ án này chủ yếu là ủy thác tư pháp giữa Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Tòa án có thẩm quyền của các nước để nhằm giúp nhau thực hiện một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định… Do đặc điểm về lịch sử, nhiều gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như các tỉnh tại miền Nam có nhiều người thân định cư làm ăn sinh sống ở nước ngoài như Mỹ, Úc, Canada, Anh…đây là những nước chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam nên việc thực hiện ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn vì không có kết quả. Đối với những nước có Hiệp định tương trợ tư pháp thì có thể nhận được kết quả nhưng rất chậm. Mặt khác trào lưu kết hôn với người nước ngoài cũng là vấn đề để lại hậu quả khi một bên trở về nước và có yêu cầu ly hôn với người đang ở nước ngoài. Đối với các vụ án hôn nhân gia đình, bị đơn thường là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân nước ngoài, hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư ở nước ngoài; Đối với các vụ án dân sự yếu tố nước ngoài thường là những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài. Các vụ kinh doanh thương mại thì công ty chính ở nước ngoài, các vụ lao động thì chủ doanh nghiệp là người nước ngoài đã trở về nước mà không thanh toán các khoản tiền cho người lao động. Việc ủy thác tư pháp để ghi lời khai của những người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Ví dụ bị đơn là công dân Mỹ, đang định cư tại Mỹ, có địa chỉ rõ ràng, văn bản ủy thác ghi lời khai của bị đơn Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ghi là “Tòa án có thẩm quyền của Hoa Kỳ” gửi đến Bộ Tư pháp kèm theo bản dịch bằng tiếng Anh (do đương sự nộp chi phí dịch thuật) để Bộ Tư pháp gửi Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) thực hiện ủy thác đến Hoa Kỳ thì rõ ràng rất khó có kết quả. Tòa án có thẩm quyền ở đây là Tòa án nào, phía Mỹ thực hiện việc ủy thác của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí minh thì họ có lợi gì trong khi không có phí ủy thác. Gặp những vụ án như thế này thì việc thời hạn để xét xử không đảm bảo, việc kéo dài và bế tắc khi không có kết quả ủy thác sẽ làm thiệt thòi quyền lợi của người đang ở trong nước; nếu họ lấy vợ, chồng khác thì cuộc sống hôn nhân trái pháp luật các quyền lợi về vợ chồng không được đảm bảo; đối với các vụ án dân sự thì kéo dài việc tranh chấp về tài sản, người lẽ ra có quyền thì chưa được hưởng về tài sản một cách kịp thời, gây khó khăn cho cuộc sống và đôi khi còn dẫn đến vụ án hình sự khác. Đối với án xử xong, nếu có đương sự trong nước kháng cáo thì hồ sơ không thể chuyển ngay để Tòa phúc thẩm giải quyết mà phải chờ kết quả ủy thác bản án đối với người đang ở nước ngoài, kéo dài thời gian thêm thời gian giải quyết vụ án. Hiện nay, nhiều vụ án đang bị kéo dài, không thể tạm đình chỉ vì đây không phải là lý do tạm đình chỉ, không thể giải quyết vì chưa có kết quả ủy thác, được xem là án quá hạn so với thời hạn luật tố tụng dân sự quy định. Thiết nghĩ để việc ủy thác tư pháp có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án, không mang tính hình thức, gây tốn kém cho người dân vì ủy thác lần thứ nhất, hết thời hạn, không có kết quả lại tiếp tục ủy thác lần thứ hai thì Việt Nam cần thúc đẩy công tác đàm phán, ký kết Hiệp định song phương, song song đó Việt Nam cần tham gia vào một số công ước đa phương; củng cố các cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng, tiên quyết đối với hoạt động tương trợ tư pháp, quy trình ủy thác tư pháp, quan hệ phối hợp giữa Tòa án Việt Nam và Tòa án các nước…. Một vấn đề đang rất cần sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền. (Bài của Thẩm phán Trịnh Thị Hồng Việt,Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh) |
Ví dụ thứ hai: Bản án đã có hiệu lực của Tòa án Việt Nam không được thừa nhận và thực thi ở Hoa Kỳ và ngược lại – từ vụ việc Tòa án Hoa Kỳ kết tội ca sỹ Lý Hương bắt cóc con ruột Do liên quan tới nhiều quốc gia khác nhau mà với các vụ việc dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình (gọi chung là vụ việc dân sự) có yếu tố nước ngoài hoàn toàn có thể thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhiều nước. Vì thế, nếu đương sự nộp đơn khởi kiện ở nhiều nước thì kết cục với một vụ việc sẽ tồn tại nhiều phán quyết được tuyên bởi tòa án các nước khác nhau. Đây chính là hiện tượng đa phán quyết trong Tư pháp quốc tế. Đa phán quyết gây ra những khó khăn cho việc thi hành bản án, quyết định dân sự cũng như bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Bởi lẽ, về nguyên tắc, bản án, quyết định dân sự của tòa án nước nào thì chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ nước đó và hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của tòa án các nước là ngang nhau, không thể loại trừ nhau. Vụ việc tranh chấp quyền nuôi con (cháu bé có tên Princess Lam) giữa ca sĩ Lý Hương và Tony Lam đang diễn ra chính là một minh chứng sinh động của đa phán quyết. Đã có hai phán quyết với nội dung trái ngược nhau – một của tòa án Việt Nam và một của tòa án Mỹ liên quan đến tranh chấp quyền nuôi con của cặp vợ chồng này. Vụ việc trên khá lạ lẫm với nhiều người Việt Nam, còn những người nghiên cứu pháp luật lại có thêm lý do để nhìn lại một hiện tượng khá gai góc của tư pháp quốc tế. Cả về lý thuyết lẫn thực tế là khả năng xuất hiện của đa phán quyết là rất lớn. Để tránh những rắc rối xảy ra như vụ việc tranh chấp quyền nuôi con giữa ca sĩ Lý Hương và Tony Lam – những rắc rối do chính đa phán quyết mang lại, cần có những nỗ lực của cả các quốc gia và các bên đương sự. Về phía nhà nước, để loại trừ được đa phán quyết, cần phải có những cố gắng để đạt được sự đồng thuận trong việc thống nhất tòa án có thẩm quyền giải quyết, thông qua các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Trong ngắn hạn, các quốc gia có thể nghĩ tới việc đưa điều khoản thống nhất thẩm quyền xét xử vào các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước với nhau. Đối với các đương sự, với bối cảnh thiếu vắng các điều ước quốc tế thống nhất về thẩm quyền xét xử giữa các quốc gia đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, sự lựa chọn thông minh để tránh những rắc rối của đa phán quyết chính là triển khai nhanh chóng việc công nhận và thi hành phán quyết được tuyên bởi tòa án một nước tại các nước có liên quan mật thiết đối với vụ việc tranh chấp. (Trích bài phân tích của ThS. Nguyễn Bá Bình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp) |
Thực tế triển khai công tác tương trợ tư pháp cho thấy khi các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp ra nước ngoài thì hầu như chỉ nhận được kết quả từ các nước có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam. Trong khi đó, trong số các nước chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, nhiều quốc gia có đông công dân Việt Nam sinh sống, lao động và học tập như: Hoa Kỳ, Ôx-trây-lia, Ca-na-đa, Cộng hòa Liên bang Đức… Số lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự (chủ yếu là yêu cầu của Tòa án Việt Nam) gửi tới các quốc gia này là rất lớn. Đặc biệt, theo quy định của một số quốc gia (như Ấn độ chẳng hạn), các yêu cầu tương trợ tư pháp của một nước sẽ không được thực hiện nếu giữa nước đó và Ấn Độ chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp. Trên thực tế, các ủy thác tư pháp của Việt Nam gửi đến Hoa Kỳ, Ôx-trây-lia, Ca-na-đa đều rơi vào tình trạng “gửi đi nhưng không trả về”, còn gửi đến Ấn Độ thì bị trả lại do chưa có Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa hai nước. Hiện nay, Ấn Độ đã bày tỏ mong muốn hai nước sớm tiến hành đàm phán được Hiệp định tương trợ tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện tương trợ tư pháp giữa hai nước. Đối với Hoa Kỳ, Ôx-trây-lia, Ca-na-đa và một số quốc gia khác, do đã tham gia vào các Công ước La-hay về tống đạt giấy tờ, về thu thập chứng cứ, miễn hợp pháp hóa lãnh sự và nhiều Công ước La-hay khác về tương trợ tư pháp, trên thực tế không ký hiệp định song phương với các quốc gia khác trong lĩnh vực này nên không có nhu cầu ký kết hiệp định song phương với Việt Nam.
Từ những ví dụ rất thực tế liên quan đến những vụ việc cụ thể cũng như từ thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp nói chung, có thể cho thấy rõ rằng việc chậm đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song phương và gia nhập các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp ngày nào, thì ngày đó còn có những người dân còn phải chịu những thiệt thòi, quyền lợi chính đáng và hợp pháp bị ảnh hưởng do những rào cản, lỗ hồng pháp lý không do bản thân họ tạo ra. Từ những ví dụ và phân tích về mặt ảnh hưởng, tác động của các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại, có thể thấy tăng cường đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế (cả song phương và đa phương) về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng những đòi hỏi và bức xúc từ cuộc sống.
PHẦN THỨ BA: Nhận xét tổng quan về tình hình ký kết và thực hiện các vấn đề liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự của một số nước trên thế giới và một số kinh nghiệm, bài học đối với Việt Nam
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích nghiên cứu, giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:
1. Tư vấn pháp luật lao động;
2. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;
3.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;
4. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;
5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.
6. Luật sư tranh tụng tại tòa án và đại diện ngoài tố tụng;
7. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;
8. Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn trực tuyến qua tổng đài 1900.0191;