1. Bảo lưu điều ước quốc tế là gì ?

Theo Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thì:

“Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số quy định của điêu ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó”.

Bảo lưu (nếu có) chỉ có thể tiến hành vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi nhằm xác nhận sự ràng buộc của một điều ước đối vói quốc gia đó.

 

2. Quy định chung về bảo lưu điều ước quốc tế

Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế xác nhận bảo lưu là quyền của các quốc gia tham gia kí kết điều ước. Nhưng quyền này bị hạn chế bởi những trường hợp sau: điều ước quốc tế cấm bảo lưu; bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước, điều ước quốc tế chỉ cho phép bảo lưu một số điều khoản nhất định. Các thành viên khác của điều ước quốc tế có quyền phản đối bảo lưu. Chủ thể luật quốc tế cũng có quyền tuyên bố rút bảo lưu vào bất cứ thời điểm nào nếu xét thấy cần thiết. Tuyên bố bảo lưu, tuyên bố rút bảo lưu, tuyên bố phản đối bảo lưu phải được thể hiện bằng văn bản.

Bảo lưu trong thực tiễn đã nâng cao đáng kể tính linh hoạt trong việc áp dụng điều ước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng số lượng các thành viên điều ước trong trường hợp việc đạt được sự nhất trí chung về toàn bộ các vấn đề của điều ước là rất khó.

Điều 2 của Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được Quốc hội thông qua năm 2005 có quy định bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với điều ước quốc tế là tuyên bố của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi kí, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhiều bên nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lí của một hoặc một số quy định trong điều ước quốc tế đó khi áp dụng đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương IV của Luật này có quy định chỉ tiết nội dung các vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo lưu điều ước quốc tế nhiều bên.

Điều 54 của Luật quy định: cơ quan đề xuất có trách nhiệm nêu rõ kiến nghị đưa ra bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhiều bên, yêu cầu, nội dung, thời điểm tuyên bố bảo lưu trong tờ trình Chính phủ về việc kí, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhiều bên được phép bảo lưu và có điều khoản mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần tuyên bố bảo lưu; cơ quan đề xuất có trách nhiệm nêu rõ kiến nghị chính thức khẳng định lại bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhiều bên mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố khi kí điều ước quốc tế đó trong tờ trình Chính phủ về việc phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế nhiều bên; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định kí, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhiều bên có quyền quyết định việc bảo lưu điều ước quốc tế đó.

Điều 55 của Luật quy định về việc thông báo về bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo đó cơ quan đề xuất phối hợp với Bộ Ngoại giao thông báo cho cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên về bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi kí điều ước quốc tế đó. Bộ Ngoại giao thông báo cho cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên về bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế có điều khoản mà Việt Nam tuyên bố bảo 8% lưu hoặc phải khẳng định lại bảo lưu đã tuyên bố khi kí điều ước quốc tế đó và thông báo cho các cơ quan nhà nước hữu quan về ngày có hiệu lực của tuyên bố bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với điều ước quốc tế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên.

Luật này cũng quy định việc chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên kí kết nước ngoài, thẩm quyền quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên kí kết nước ngoài, trình tự, thủ tục trình, quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên kí kết nước ngoài, thông báo về việc chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên kí kết nước ngoài và việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu.

Đối với việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu, Luật quy định: cơ quan đề xuất có trách nhiệm trình Chính phủ về việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu sau khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bảo lưu hoặc phản đối bảo lưu có quyền quyết định rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu đó.

Việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu phải được thể hiện bằng văn bản và theo thủ tục, trình tự quy định của Luật.

 

3. Điều khoản bảo lưu điều ước quốc tế

Phù hợp với mục đích của việc ký kết điều ước quốc tế và lợi ích của các quốc gia thành viên, luật điều ước quốc tế thừa nhận bảo lưu là quyền của các chủ thể khi tham gia ký kết điều ước quốc tế nhưng quyền này không phải là tuyệt đối mà nó bị hạn chế trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, một quốc gia sẽ không được phép đưa ra tuyên bố bảo lưu nếu liên quan đến:

– Trường hợp điều ước quốc tế cấm bảo lưu;

– Trường hợp bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước.

Tương tự, quyền bảo lưu điều ước quốc tế của một quốc gia cũng sẽ bị hạn chế khi trong nội dung của điều ước đó chỉ cho phép bảo lưu đối với những điều khoản nhất định.

Trong thực tiễn thường có thể có hai dạng quy định liên quan đến vấn đề bảo lưu điều ước, đó là trường hợp điều ước có điều khoản quy định về bảo lưu và trường hợp điều ước không có điều khoản quy định về bảo lưu. Ở trường hợp thứ nhất, nếu điều ước cho phép bảo lưu hoặc chỉ được bảo lưu những điều khoản cụ thể thì những vấn đề bảo lưu sẽ tuân theo các quy định của chính điều ước quốc tế đó. Còn với trường hợp thứ hai, nếu điều ước không có điều khoản quy định về bảo lưu thì Công ước Viên năm 1969 quy định:

– Việc bảo lưu phải được tất cả các bên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước giữa tất cả các bên là điều kiên cần thiết dân tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối vối điều ước.

– Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu.

– Nếu điều ước là văn kiện thành lập tổ chức quốc tế thì một bảo lưu cần được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.

Ngoài các quy định nêu trên về việc bảo lưu điều ước quốc tế, cần lưu ý rằng, mặc dù Công ước Viên năm 1969 không quy định cụ thể nhưng trong thực tế, bảo lưu không đặt ra đối với các điều ước quốc tế song phương vì các thoả thuận, cam

kết trong quan hệ song phương hầu như chỉ liên quan đến chính hai bên chủ thể, thông qua các điều khoản ưong điều ước để xác lập rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên. Vì vậy, nếu một ưong hai bên đưa ra bảo lưu sẽ dân đến sự tổn hại cho lợi ích của bên kia. Sự bất đồng (nếu có) về những điều khoản cụ thể sẽ đòi hỏi các bên phải tiến hành thương lượng lại thì mới có thể đạt được những thoả thuận để hình thành nên văn bản điều ước mà các bên mong muốn thiết lập.

 

4. Thủ tục bảo lưu điều ước quốc tế

Do bảo lưu có ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị hiệu lực của các điều khoản của điều ước quốc tế trong quan hệ giữa các bên nên theo quy định của Công ước Viên năm 1969, việc tuyên bố bảo lưu, rút bảo lưu, chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu đều phải được trình bày bằng văn bản và thông báo cho các bên liên quan.

 

5. Hệ quả và ý nghĩa pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế

Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước nhưng về tổng thể, quan hệ giữa các thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu. Sự thay đổi Hên quan đến bảo lưu khác nhau, tùy thuộc vào việc phản đối hoặc chấp thuận bảo lưu. Từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không có quan hệ điều ước hoặc không áp dụng điều khoản bảo lưu trong quan hệ giữa hai bên, còn đối với các điều khoản còn lại, quan hệ điều ước vẫn diễn ra bình thường.

Đối với nhiều thành viên, bảo lưu là giải pháp pháp lý để giải quyết hài hoà lợi ích riêng của quốc gia với lợi ích khi tham gia điều ước, qua đó góp phần tăng cường số lượng thành viên tham gia để điều ước có điều kiện hình thành và phát huy vai ttò điều chỉnh các quan hê quốc tế nảy sinh.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)