Hầu như tất cả (98%) các website chưa cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản về thương nhân như tên, địa chỉ, số điện thoại, email, giấy phép đăng ký kinh doanh. 46% các website không công bố bất cứ thông tin gì về các điều khoản giao dịch, chỉ có 8% công bố đầy đủ các điều khoản giao dịch.Đa phần website vẫn chưa chú ý thích đáng tới việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp. Chỉ có 4% trong số những website được khảo sát công bố thông tin về quy trình giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Có ý kiến cho rằng, Dự thảo Luật dường như chỉ quy định đối với các giao dịch truyền thống mà chưa tính đến các phương thức kinh doanh mới đang phát triển như giao dịch trên Internet hiện nay1. Sau khi kỳ họp thứ 7, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã phối hợp với Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật theo ý kiến góp ý của đại biểu. Tuy nhiên, theo dõi bản Dự thảo 5.4 đưa ra tại cuộc họp ngày 14/8/2010 do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, có thể nhận thấy, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử qua Internet vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng internet

Luật sư tư vấn luật Đất đai qua điện thoạigọi số:  1900.0191

1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử

Hợp đồng điện tử đặc trưng cho các giao dịch được thiết lập từ xa. Trong mối quan hệ này, người tiêu dùng luôn ở thế yếu so với nhà cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Thế yếu này bắt nguồn từ chính phương thức giao kết hợp đồng: phải sử dụng biện pháp liên lạc từ xa (qua website, e-mail hay chat room…). Người tiêu dùng có thể thiếu thông tin về tình hình thực tế hay pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Đặc điểm này là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giữa các bên. Dễ nhận thấy rằng, khi mua một mặt hàng bất kỳ (ví dụ như quần áo) thông qua một website, người tiêu dùng không có dịp kiểm tra màu sắc, kích cỡ hay chất liệu quần áo như khi mua ở một cửa hàng thời trang. Vì vậy, có thể sẽ có rủi ro khi giao kết hợp đồng, sự đồng ý của người tiêu dùng sẽ không rõ ràng như khi ký kết hợp đồng với sự hiện diện của các bên. Ở cấp độ thấp hơn, việc mua hàng thiếu cân nhắc cũng rất đáng ngại, khi đó người tiêu dùng sẽ không suy nghĩ chín chắn trước khi ký kết hợp đồng như trong giao dịch truyền thống. Khi các hợp đồng điện tử đa phần dưới dạng là hợp đồng mẫu, thì vị thế của người tiêu dùng từ xa lại càng yếu thế vì họ không có quyền thỏa thuận, thương lượng.

Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên, có tình trạng bất cân xứng về thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên, quy trình, phương thức giao kết hợp đồng điện tử có khác biệt, nhưng không phải “cư dân mạng” nào cũng nắm rõ. Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng – bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng điện tử.

Sự thành công của hợp đồng điện tử phụ thuộc vào việc xây dựng một môi trường giao dịch thu hút cũng như an toàn đối với các bên tham gia. Điều này đặc biệt đúng khi nói tới khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng. Một yếu tố quan trọng để tạo môi trường cho lòng tin và sự tín nhiệm trong giao kết hợp đồng điện tử là phải bảo vệ được người tiêu dùng. Các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử qua mạng Internet không nhất thiết hay không thể gặp mặt nhau. Thông thường, người tiêu dùng không biết rõ các thông tin về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp như người bán hàng, khả năng chịu rủi ro sẽ cao hơn, do đó cần có những quy định pháp luật bảo vệ họ.

2. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử

Ở Việt Nam, cùng với những chuyển biến của môi trường xã hội, hạ tầng công nghệ và khung pháp lý trong những năm gần đây, ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, đặc biệt là các ứng dụng trên nền Internet. Số lượng website thương mại điện tử tăng rất nhanh. Do đặc thù của môi trường Internet, giao dịch tiến hành trên những website này tuân theo những trình tự và điều kiện rất khác biệt so với giao dịch truyền thống, đặc biệt trong quy trình giao kết hợp đồng giữa các bên. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật trước đây (trước năm 2006) chưa có văn bản nào điều chỉnh vấn đề này, mọi giao dịch trên các website vẫn được tiến hành một cách tự phát và không có cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp phát sinh.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về quy trình giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử là hết sức cần thiết, nhằm thiết lập những nguyên tắc và chuẩn mực chung cho hoạt động của các website, nâng cao tính minh bạch của một hình thức giao dịch thương mại điện tử phổ biến, đồng thời góp phần bảo vệ và cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia giao dịch.

Về vấn đề này, đầu tiên phải kể đến Luật Công nghệ thông tin năm 2006. Khoản 2 Điều 30 Luật này quy định khi thực hiện việc kinh doanh trên mạng, một website bán hàng phải bảo đảm các yêu cầu: a) cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hàng hóa, dịch vụ, điều kiện giao dịch, thủ tục giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại; b) cung cấp cho người tiêu dùng thông tin về phương thức thanh toán an toàn và tiện lợi trên môi trường mạng và c) công bố các trường hợp người tiêu dùng có quyền hủy bỏ, sửa đổi thỏa thuận trên môi trường mạng.

Trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuận khác, tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải cung cấp các thông tin sau đây cho việc giao kết hợp đồng: a) trình tự thực hiện để tiến tới giao kết hợp đồng trên môi trường mạng; b) biện pháp kỹ thuật xác định và sửa đổi thông tin nhập sai; c) việc lưu trữ hồ sơ hợp đồng và cho phép truy nhập hồ sơ đó. Khi đưa ra các thông tin về điều kiện hợp đồng cho người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân phải bảo đảm cho người tiêu dùng khả năng lưu trữ và tái tạo được các thông tin đó (Điều 31 Luật Công nghệ thông tin năm 2006).

Một thực tế trong giao dịch điện tử là mọi người thường vội vã nhấp nút “Gửi” khi thực ra họ chưa định làm thế. Nhiều người giao kết hợp đồng qua mạng chắc chắn đã từng gặp trường hợp nhập thông tin vào mẫu trên website mà sai về mọi thứ, từ lỗi chính tả đến số lượng và món đồ định mua. Những lỗi này thường mang tính khách quan, thể hiện sự không thống nhất giữa thao tác bên ngoài với ý chí bên trong của người mua. Để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong những trường hợp như thế này, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đưa ra biện pháp tại Điều 32: “Trường hợp người mua nhập sai thông tin gửi vào trang thông tin điện tử bán hàng mà hệ thống nhập tin không cung cấp khả năng sửa đổi thông tin, người mua có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu đã thực hiện các biện pháp sau đây:

1. Thông báo kịp thời cho người bán biết về thông tin nhập sai của mình và người bán cũng đã xác nhận việc nhận được thông báo đó;

2. Trả lại hàng hoá đã nhận nhưng chưa sử dụng hoặc hưởng bất kỳ lợi ích nào từ hàng hóa đó”.

Giải pháp tương tự cũng được quy định tại Điều 15 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử khi cho phép cá nhân mắc phải lỗi nhập thông tin khi giao tiếp với một hệ thống thông tin tự động có thể rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy các quy định nêu trên mới chỉ là quy định khái quát, mang tính nguyên tắc, để đi vào cuộc sống thì cần phải có những quy định cụ thể, chi tiết hơn. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại điện tử, Bộ Công thương đã xây dựng và ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BCT ngày 21/7/2008 hướng dẫn việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử nhằm đáp ứng các nhu cầu nói trên của thực tiễn kinh doanh. Thông tư được xây dựng theo những quan điểm chủ yếu là: điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù của việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử, còn việc thực hiện hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật chung về hợp đồng (cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật chung về thương mại); điều chỉnh việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử giữa thương nhân với khách hàng (là cá nhân hoặc tổ chức). Các giao dịch giữa cá nhân và cá nhân là giao dịch dân sự, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư. Mục tiêu của Thông tư là đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử do khách hàng thường ở thế bất lợi hơn trong việc tiếp cận thông tin và bị động hơn trong việc thỏa thuận các điều kiện hợp đồng; đưa ra một khung quy định chung về những thông tin cần được cung cấp và quy trình giao kết hợp đồng trên các website thương mại điện tử nhằm bảo vệ lợi ích tối thiểu cho khách hàng. Thương nhân là bên chiếm ưu thế hơn trong việc đề ra các điều khoản của hợp đồng, do đó có thể chủ động áp dụng những biện pháp nhằm bảo vệ lợi ích của mình khi giao dịch với khách hàng trên website thương mại điện tử.

Dựa trên những yếu tố đặc thù của môi trường mạng, Thông tư số 09/2008/TT-BCT quy định về một quy trình giao kết hợp đồng tiêu biểu qua website thương mại điện tử, qua đó giúp phân định phạm vi trách nhiệm của mỗi bên trong các giao dịch này, đồng thời giảm bớt sự bất bình đẳng giữa khách hàng và thương nhân trong giao kết hợp đồng. Bên cạnh những điều khoản về quy trình giao kết hợp đồng, Thông tư số 09/2008/TT-BCT còn quy định cụ thể việc cung cấp thông tin trên các website thương mại điện tử nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình giao dịch với yêu cầu những thông tin này phải: a) rõ ràng, chính xác, dễ tìm và dễ hiểu; b) được sắp xếp tại các mục tương ứng trên website và có thể truy cập bằng phương pháp trực tuyến; c) có khả năng lưu trữ, in ấn và hiển thị được về sau và d) được hiển thị rõ đối với khách hàng trước thời điểm khách hàng gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Những thông tin mà thương nhân phải công bố trên website theo quy định của Thông tư số 09/2008/TT-BCT bao gồm: thông tin về thương nhân và người sở hữu website; thông tin về hàng hóa, dịch vụ; thông tin về giá cả; thông tin về các điều khoản giao dịch; thông tin về vận chuyển và giao nhận; thông tin về các phương thức thanh toán; thông tin đầy đủ và trung thực về việc được chứng nhận website thương mại điện tử uy tín. Thông tư số 09/2008/TT-BCT còn dành một mục (Mục IV) quy định một số vấn đề đặc thù trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử, như cơ chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; thủ tục chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ trực tuyến dài hạn; giải quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng giao kết trên website thương mại điện tử; bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng trên website thương mại điện tử…

Có thể nhận thấy, các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử của Việt Nam về cơ bản đã tiệm cận được xu hướng điều chỉnh pháp luật trên thế giới, như quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; quy định về cơ chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; quy định về sửa lỗi do nhập sai thông tin khi giao kết hợp đồng qua mạng; quy định bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng qua mạng… Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cho phép người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng, trả lại hàng hóa đã mua và không phải bồi thường, khi giao kết hợp đồng qua Internet trong một thời hạn nhất định như pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới2. Quyền rút lui khỏi hợp đồng giúp người tiêu dùng không bị rơi vào thế yếu, nếu nhận thấy mặt hàng mua từ xa không phù hợp với yêu cầu (chẳng hạn như quần áo không vừa), người tiêu dùng có thể thay đổi ý định mà không phải chịu phạt. Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử còn nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, khó cho việc tra cứu và quan trọng hơn, phần lớn các quy định này mới chỉ được quy định trong một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp (Thông tư số 09/2008/TT-BCT), nên hiệu quả điều chỉnh trong thực tiễn chưa cao (có thể thấy rõ điều này qua số liệu khảo sát được trình bày dưới đây). Điều đáng tiếc là trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhiều quy định của Thông tư số 09/2008/TT-BCT được đánh giá là khá tốt lại chưa được pháp điển hóa, nâng lên thành luật quy định trong Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Sau khi Thông tư số 09/2008/TT-BCT được ban hành, một cuộc khảo sát về mức độ tuân thủ các quy định của Thông tư đã được tiến hành đối với 50 website thương mại điện tử do Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin kết hợp thuộc Bộ Công thương phối hợp với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam. Kết quả khảo sát đối với một số tiêu chí cơ bản cho thấy:

Hầu hết website (96%) đều mô tả khá rõ ràng về hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng dễ dàng đưa ra các quyết định mua hàng cũng như xây dựng lòng tin của khách hàng tốt hơn khi thăm các website.

Giá cả của các hàng hóa dịch vụ là tiêu chí duy nhất mà tất cả các website đều đăng tải. Tuy nhiên, khi đi vào chi tiết thì chỉ có 38% các website công bố rõ ràng cơ cấu giá (giá trước thuế, giá sau thuế, chi phí vận chuyển, các chi phí có liên quan…).

Đa số các website đều có cơ chế trả lời đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng (80%), nhưng còn 20% website không có bất kỳ hình thức trả lời đề nghị giao kết hợp đồng nào trong một khoảng thời gian cụ thể.

Hầu như tất cả (98%) các website chưa cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản về thương nhân như tên, địa chỉ, số điện thoại, email, giấy phép đăng ký kinh doanh.

46% các website không công bố bất cứ thông tin gì về các điều khoản giao dịch, chỉ có 8% công bố đầy đủ các điều khoản giao dịch.

Đa phần website vẫn chưa chú ý thích đáng tới việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp. Chỉ có 4% trong số những website được khảo sát công bố thông tin về quy trình giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Một tiêu chí rất quan trọng nữa để đánh giá về một website thương mại điện tử là chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng. Thông tin cá nhân gần đây đã trở thành vấn đề nổi cộm trên thế giới và được rất nhiều quốc gia và tổ chức quan tâm. Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả website thuộc mẫu điều tra đều có thu thập thông tin cá nhân của khách hàng, kể cả những thông tin cực kỳ nhạy cảm như thẻ tín dụng. Nhưng chỉ có 12% các website công bố chính sách bảo vệ thông tin cá nhân, 6% có cơ chế cho phép khách hàng lựa chọn đồng ý hoặc từ chối cung cấp thông tin cá nhân khi tham gia giao dịch3.

So với Dự thảo 5, quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử của Dự thảo 5.4 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hai điểm bổ sung đáng chú ý:

Một là, quy định tại khoản 3 Điều 13: “Trường hợp giao kết hợp đồng qua phương tiện điện tử, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải tạo điều kiện cho người tiêu dùng xem toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết”.

Hai là, quy định tại khoản 2 Điều 19: “Trường hợp giao dịch qua trang thông tin điện tử, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm cung cấp cho người tiêu dùng khả năng truy nhập, tải, lưu giữ và in hóa đơn, chứng từ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này”.

Tuy nhiên, quy định tại khoản 3 Điều 13 là không khả thi, bởi đối với trường hợp giao kết hợp đồng qua điện thoại (một loại phương tiện điện tử), thì các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ dù muốn cũng không thể cho người tiêu dùng xem toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết được.

Để Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sau khi được ban hành có tính khả thi và đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn hiện nay, thì một trong những nguyên tắc quan trọng cần phải quán triệt trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật này là: các biện pháp và mức độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch điện tử không thấp hơn so với các giao dịch truyền thống.

Nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chúng tôi cho rằng, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử cần được quy định đầy đủ và chi tiết hơn. Ban soạn thảo nên tổng kết, nghiên cứu và pháp điển hóa các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử nằm rải rác ở các văn bản khác nhau và có hiệu lực pháp lý thấp như đã phân tích ở mục 2 để đưa vào trong Dự thảo Luật này.

Chú thích:

(1) http://dantri.com.vn/c20/s20-400158/nguoi-tieu-dung-truc-tuyen-de-bi-gai-bay.htm

(2) Ví dụ, ở Pháp, người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng trong thời hạn 07 ngày, không kể ngày lễ và chủ nhật: Đối với hàng hóa, tính từ ngày người tiêu dùng nhận được hàng hóa, nếu đã có thư khẳng định lại của thương nhân qua đường thư điện tử (email); đối với dịch vụ, thời hạn này được tính từ ngày ký kết hợp đồng hoặc từ ngày thương nhân thực hiện việc khẳng định lại thông tin bằng thư điện tử.

Trong trường hợp thương nhân không thực hiện nghĩa vụ khẳng định lại thông tin bằng email, thì thời hạn mà người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng là 03 tháng: Đối với hàng hóa, tính từ ngày người tiêu dùng nhận được hàng hóa; đối với dịch vụ, tính từ ngày ký kết hợp đồng.

Trong trường hợp người tiêu dùng thực hiện quyền rút lui khỏi hợp đồng, thương nhân phải hoàn trả lại số tiền đã nhận trong thời hạn tối đa là 30 ngày.

Quyền rút lui khỏi hợp đồng của người tiêu dùng không áp dụng đối với những hàng hàng hóa hoặc dịch vụ được sử dụng ngay lập tức như: băng, đĩa hình; băng, đĩa nhạc; các phần mềm tin học hay báo chí điện tử…

(3) Bộ Công thương (2010), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2009, tr. 31-32.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)