1. Người cho vay cuối cùng – Lender of last resort 

1.1 Khái niệm Người cho vay cuối cùng – LoR

Người cho vay cuối cùng (lender of last resort – LoR) được thể hiện qua vai trò của ngân hàng trung ương trong việc cung cấp tiền cho ngân hàng thương mại khi họ không có đủ dự trữ hoặc không có đủ tiền mặt trả cho những khách hàng đến rút tiền ra. Khi các ngân hàng thương mại thấy mình bị thiếu tài sản có khả năng thanh toán so với mức an toàn, tức không đạt mức dự trữ bắt buộc, họ phải tăng cường khả năng thanh toán. Họ có thể làm việc này bằng cách bán trái phiếu kho bạc cho ngân hàng trung ương, thu hồi vốn cho vay ngắn hạn hay vay chiết khấu tại ngân hàng trung ương.

1.2 Một số đặc điểm của LoR

LoR có vai trò cung cấp các khoản tín dụng khẩn cấp cho các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn về tài chính hoặc đang trong bờ vực phá sản.

Các Ngân hàng Trung ương thường đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng không còn khả năng cho vay khác, vì khi các ngân hàng không còn khả năng cho vay hoăc phá sản sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc gia.

1.3 Các học thuyết về người cho vay cuối cùng

Mặc dù Alexander Halminton là nhà hoạch định chính sách đầu tiên giải thích và thực hiện chính sách người cho vay  cuối cùng vào năm 1792, tuy nhiên, lý thuyết cổ điển về người cho vay cuối cùng hầu hết được phát triển bởi hai người Anh vào thế kỷ 19 là Henry Thornton và Walter Bagehot. Mặc dù một số chi tiết vẫn còn gây tranh cãi, lý thuyết chung của chúng vẫn được thừa nhận rộng rãi trong nghiên cứu hiện đại và cung cấp một chuẩn mực phù hợp. Thornton và Bagehot chủ yếu quan tâm đến việc giảm lượng tiền dự trữ. Đó là bởi vì họ sợ rằng xu hướng giảm phát gây ra bởi việc giảm lượng tiền dự trữ có thể làm giảm mức độ hoạt động kinh tế.

Thornton đã đưa ra cách giải thích về Người cho vay cuối cùng của mình trong cuốn  An Enquiry into the Nature and Effects of the Paper Credit of Great Britain  ở Anh vào năm 1802. Theo quan điểm của ông, chỉ có ngân hàng trung ương mới có thể thực hiện nhiệm vụ cho vay cuối cùng bởi vì ngân hàng này độc quyền phát hành tiền giấy. Không giống như bất kỳ ngân hàng nào khác, ngân hàng trung ương có trách nhiệm đối với công chúng là giữ cho lượng tiền dự trữ ổn định, do đó ngăn ngừa các tác động tiêu cực từ bên ngoài gây bất ổn hệ thống tiền tệ, như thất nghiệp, bất ổn giá cả, đột biến rút tiền gửi và khủng hoảng tài chính.

Bagehot là người đóng góp quan trọng thứ hai cho lý thuyết cổ điển. Trong cuốn sách Lombard Street được ông xuất bản năm 1873, ông hầu như đồng ý với quan điểm của Thornton tuy không đề cập đến Thornton, ông cũng đã phát triển một số điểm mới và nhấn mạnh thêm các quan điểm mà Thornton đã đưa ra. Theo Bagehot và những người ủng hộ quan điểm của ông: “Các khoản vay rất lớn với lãi suất rất cao là biện pháp khắc phục tốt nhất cho tình trạng tồi tệ nhất của thị trường tiền tệ khi một dòng chảy nước ngoài được thêm vào một dòng chảy trong nước.” Các điểm chính của ông có thể được tóm tắt bằng quy tắc nổi tiếng của mình: cho vay “một cách thoải mái nhất … từ các thương gia đên các chủ ngân hàng nhỏ, hay ‘người này và người kia’, bất cứ khi nào an ninh tốt”.

Thomas M.Humphrey – người đã nghiên cứu sâu rộng về các công trình của Thornton và Bagehot đã tóm tắt các quan điểmt chính của họ như sau: (1) bảo vệ lượng tiền dự trữ thay vì tiết kiệm các tổ chức cá nhân; (2) chỉ các tổ chức dung môi giải cứu; (3) để các tổ chức mất khả năng thanh toán vỡ nợ; (4) lệ phí phạt; (5) yêu cầu tài sản thế chấp tốt; và (6) công bố các điều kiện trước khi xảy ra khủng hoảng để thị trường biết chính xác điều gì sẽ xảy ra.

1.4 Một số quan điểm phản đối việc các ngân hàng trung ương đóng vai trò và LoR

Mặc dù ngân hàng trung ương đã giúp ngăn chặn các sực kiện đột biến rút tiền gửi của NH trước đây, tuy nhiên các nhà phê bình vẫn cho rằng ngân hàng trung ương không nên đóng vai trò như một người cho vay cuối cùng vì những lý do sau:

Rủi ro đạo đức

Những người phản đối cho rằng các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác có khả năng thực hiện các khoản đầu tư rủi ro khi biết rằng họ sẽ được cứu trợ nếu họ gặp khó khăn về tài chính. Điều này đã được khẳng định trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007/2008 khi các ngân hàng đầu tư vào các tài sản rủi ro và sau đó được Cục Dự trữ Liên bang cứu trợ.

Ngoài ra, Ủy ban Cố vấn Tổ chức Tài chính Quốc tế cáo buộc Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã cứu trợ các ngân hàng ở các nước đang phát triển tham gia vào các khoản đầu tư rủi ro. Tuy nhiên, nếu ngân hàng trung ương không cứu được các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi các đợt điều hành ngân hàng, thì các tác động có thể vượt quá rủi ro đạo đức. Ngân hàng trung ương có thể phạt nặng các ngân hàng cố ý làm sai và ban hành các quy định hướng dẫn các ngân hàng vay vốn từ ngân hàng trung ương.

Các giải pháp thay thế riêng

Những người chỉ trích cho rằng các tổ chức tư nhân có thể đảm đương chức năng cho vay của người cho vay cuối cùng mà không cần sự can thiệp của chính phủ. Trước khi Fed thành lập, Ngân hàng Suffolk của Boston và hệ thống thanh toán bù trừ của New York đã cung cấp cho các ngân hàng khả năng thanh khoản trong thời gian hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, Ngân hàng Suffolk của Boston đã giảm bớt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 1837-1839 bằng cách cung cấp các khoản cho vay phương sách cuối cùng cho các ngân hàng thành viên.

Ủy ban của Hiệp hội Nhà thanh toán bù trừ New York cũng cung cấp chứng chỉ cho vay thanh toán bù trừ cho các ngân hàng như một cách quản lý ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1857. Mặc dù các tổ chức này do tư nhân điều hành, các nhà phê bình cho rằng họ đóng vai trò như một người cho vay phương án cuối cùng thành công mà không cần sự giúp đỡ của chính phủ.

Tỷ lệ phạt cao

Việc áp đặt các hình phạt cao đối với các ngân hàng vay vốn từ ngân hàng trung ương có thể buộc họ phải tìm kiếm các nguồn cứu trợ thay thế. Những người phản đối cho rằng một tỷ lệ phạt nghiêm ngặt có thể khiến ngân hàng trung ương trở thành người cho vay cuối cùng. Các ngân hàng cũng sẽ buộc phải thực hiện các biện pháp nội bộ để ngăn chặn một ngân hàng chạy trốn vì sợ phải trả các hình phạt khắc nghiệt cho một khoản vay mà họ có thể đã duy trì nội bộ.

Ví dụ, một số ngân hàng giữ một khoản dự trữ vượt quá mức yêu cầu của ngân hàng trung ương trong thời kỳ kinh tế khó khăn khi số tiền rút của người gửi tiền có thể vượt quá giới hạn thông thường. Tuy nhiên, những người ủng hộ chức năng cho vay của ngân hàng trung ương nhận thấy rằng việc tính lãi suất cao hoặc phí phạt có thể làm cho khoản vay trở nên quá đắt đỏ, che khuất mục đích dự định của người cho vay của chức năng cuối cùng.

2. Vai trò của người cho vay cuối cùng trong việc ngăn chặn đột biến rút tiền gửi – Bank run. 

2.1 Đột biến rút tiền gửi là gì?

Đột biến rút tiền gửi (bank run) là một tình huống xảy ra trong thời kỳ khủng hoảng tài chính khi khách hàng của ngân hàng, lo lắng về khả năng thanh toán của một tổ chức, đổ xô đến ngân hàng đồng loạt và rút tiền. Bởi vì ngân hàng chỉ giữ một tỷ lệ nhỏ trong tổng số tiền gửi là tiền mặt, đột biến rút tiền gửi có thể nhanh chóng rút cạn tính thanh khoản của ngân hàng và khiến ngân hàng trở nên mất khả năng thanh toán.

Đột biến rút tiền gửi có khả năng lây lan. Nó có thể khiến những người cho tổ chức tín dụng bị phá sản cũng bị phá sản theo. Những tổ chức tín dụng khác cũng bị vạ lây khi đột nhiên người gửi tiền của mình thấy cảnh tổ chức tín dụng bị bank run mà lo lắng về tổ chức nơi mình gửi tiền và vội vã đi rút tiền của mình ra. Nhiều tổ chức tín dụng bị “bank run” sẽ khiến cho hệ thống ngân hàng bị khủng hoảng và điều này lại dẫn tới cả nền kinh tế bị khủng hoảng.

Ngày nay, với sự có mặt của thể chế bảo vệ người gửi tiền và công cụ chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG), hiện tượng đột biến rút tiền gửi có xu hướng xảy ra lặng lẽ hơn nhưng vẫn là loại rủi ro hiện hữu và có ảnh hưởng lớn. Có thể liệt kê nhiều ngân hàng có qui mô hoạt động lớn đã đóng cửa có sự hiện diện của đột biến rút tiền gửi, như: ngân hàng quốc gia Franklin (FNB) ở Mỹ bị đổ vỡ năm 1974; phá sản ngân hàng Banco Ambrosiano của Ý năm 1982; sự đổ vỡ dây chuyền của nhiều ngân hàng ở Canada những năm 1985; ngân hàng New England với 1 tỷ đô la tiền gửi bị đột biến rút khỏi đã làm ngân hàng này sụp đổ (1982-1984); hàng loạt quĩ tiết kiệm và cho vay tại bang Maryland và Ohio ở Mỹ đã bị rút tiền ồ ạt trong những năm 1980 (Temzelides, tr.4, 1997).

Trong cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997 tại nhiều quốc gia như Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia, tình trạng đột biến rút tiền gửi đã hiện hữu và để lại ảnh hưởng không nhỏ. Trong giai đoạn này, đỉnh điểm của khủng hoảng lòng tin đã dẫn đến đột biến rút tiền gửi tại 2/3 số ngân hàng tư nhân ở Indonesia, chiếm 1/2 tổng số ngân hàng ở quốc gia này (Heffernan, 2005). Trong các ngày 9-12/11/2006, Ngân hàng Trách nhiệm Hữu hạn Nepal đã đối mặt với đột biến rút tiền gửi trầm trọng, 3 tỷ rupi tiền gửi đã bị rút khỏi ngân hàng chỉ trong 3 ngày.

Những diễn biến tương tự ở Anh và Mỹ từ cuối năm 2007 tới nay cho thấy, nhiều ngân hàng lớn đã trải qua đột biến rút tiền gửi và gánh chịu hậu quả nặng nề. Cụ thể là, ngày 14-17/9/2007, đột biến rút tiền gửi diễn ra tại ngân hàng Northern Rock (NR) – một ngân hàng cho vay tín chấp lớn thứ 5 tại Anh- không những để lại chi phí lớn cho cổ đông của ngân hàng này mà còn làm giảm giá cổ phiếu của nhiều ngân hàng khác. Các nhà quan sát đánh giá, hệ thống chi nhánh của ngân hàng này đã rơi vào tình trạng khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử: cảnh hỗn loạn xẩy ra tại 72 chi nhánh, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền, hàng chục chi nhánh phải làm việc đến tận khuya. Chỉ trong vòng 4 ngày, tổng số tiền bị rút khỏi ngân hàng này vào khoảng 4 tỷ USD. Cho tới tận khi NR được ngân hàng Trung ương Anh bơm tiền và các biện pháp trấn an người gửi tiền được thực hiện, tình thế vẫn rất nguy kịch. Cuối cùng, Chính phủ Anh đã phải đứng ra bảo lãnh cho tiền gửi. Chi phí cho giải pháp cứu nguy NR ước tính khoảng 40-50 triệu bảng Anh, chiếm khoảng 10% lợi nhuận mục tiêu năm 2007 của NR.

2.2 Vai trò của người cho vay cuối cùng trong việc ngăn chặn đột biến rút tiền gửi

Trong trường hợp dự trữ của ngân hàng không ngăn chặn được đột biến rút tiền gửi, người cho vay cuối cùng có thể bơm tiền trong trường hợp khẩn cấp để khách hàng rút tiền có thể nhận tiền của họ mà không tạo ra đột biến rút tiền gửi khiến tổ chức này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.