Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời (KCTT)
Trong pháp luật Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 có một chương riêng với 28 điều quy định về biện pháp KCTT (Chương VIII, các Điều từ 99 đến 126). Về bản chất, các quy định mới của các Điều từ 48 đến 53 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 (LTT 2010) là luật riêng so với các quy định chung của BLTTDS 2004. Nói cách khác, trong tố tụng trọng tài phải áp dụng trước tiên các quy định của LTT 2010, nếu các quy định đó thiếu, chưa rõ hoặc chưa cụ thể thì cần áp dụng các nguyên tắc chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.
Biện pháp KCTT (Interim injunctive relief, Vorläufiger Rechtsschutz) được hiểu là một công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ chứng cứ, tài sản tranh chấp hoặc các đảm bảo khác thiết yếu cho thi hành các nghĩa vụ, trong khi phiên tranh tụng chính chưa kết thúc. Tuy rằng mục đích hướng tới là các biện pháp cụ thể, ví dụ kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, cấm định đoạt tài sản, song Chương VII LTT 2010 các Điều từ 48 đến 53 về biện pháp KCTT là một quy trình, quy định quyền yêu cầu, thẩm quyền xem xét và ban hành các quyết định tố tụng, các đảm bảo, quyền khiếu nại và yêu cầu đền bù thiệt hại nếu có.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
Quy trình tố tụng này là một phần phụ, phái sinh, có tính chất chuẩn bị, bổ trợ cho một thủ tục tố tụng chính đang được cơ quan tài phán thụ lý. Đây là một chế định của luật tố tụng dân sự, thường có các đặc trưng sau:
– Thứ nhất, các biện pháp này phải do một bên yêu cầu, thường là nguyên đơn, còn cơ quan tòa án thường không có quyền tự mình ra các quyết định nhằm bảo tồn tài sản tranh chấp hoặc chứng cứ; trừ những trường hợp hết sức hãn hữu tòa án mới tự mình (ex officio) ra các lệnh tòa, ví dụ được nêu tại Điều 119, Điều 102 1-5 BLTTDS 2004;
– Thứ hai, phải có những điều kiện nhất định kèm theo các yêu cầu cho áp dụng biện pháp này, ví dụ phải có chứng cứ đủ tin rằng quyền lợi của bên yêu cầu sẽ không được đảm bảo nếu không áp dụng ngay các biện pháp ví dụ như phong tỏa tài khoản hay kê biên tài sản;
– Thứ ba, quy trình ban hành các lệnh tòa để bảo toàn tài sản hay chứng cứ hoặc các biện pháp mang tính tạm thời khác thường là thủ tục rút gọn, dựa trên yêu cầu, các chứng cứ, hồ sơ của bên yêu cầu cung cấp, thường không thể có thời gian để tổ chức lấy lời khai của chứng nhân, cũng không mở phiên xét xử, mà cơ quan tài phán quyết định thường là dựa trên hồ sơ;
– Thứ tư, hình thức quyết định thường là các lệnh tòa (court’s order, einstweilige Verfügung), không phải là bản án;
– Thứ năm, bên bị thi hành các lệnh tòa đó có quyền khiếu nại, nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp đó không có cơ sở, gây ra thiệt hại cho bên bị thi hành thì người này có quyền yêu cầu bồi thường;
– Thứ sáu, sau khi có lệnh tòa, bên yêu cầu thường phải tự liên hệ với cơ quan thi hành án (ví dụ Gerichtsvollziehers theo luật Đức) để yêu cầu cho thi hành.
Thẩm quyền ban hành các lệnh tạm thời trong tố tụng trọng tài
Đây là chủ đề gây tranh luận sôi nổi trong giới học thuật và thực tiễn. Khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, thường có hai cơ quan có thể quyết định về các lệnh tạm thời này, một là hội đồng trọng tài, hai là tòa thường tụng có thẩm quyền, hoặc cả hai cơ quan này.
Điều cần lưu ý là khái niệm trọng tài ở đây được hiểu là Hội đồng trọng tài (HĐTT), chứ không phải Trung tâm trọng tài, ví dụ VIAC. Ban thư ký thường có chức năng thụ lý, cung cấp các dịch vụ tống đạt, yêu cầu các bên chỉ định trọng tài viên và ra quyết định thành lập HĐTT (đây mới là khái niệm tòa án trọng tài Schiedgericht, arbitral tribunal). Chỉ có HĐTT này mới có quyền ra các lệnh tạm thời, tương tự như lệnh tòa.
Xét về mặt thực tiễn, nếu cần tới các lệnh khẩn cấp, nguyên đơn có thể có một vài bất lợi về thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên và ban thư ký hoàn tất thủ tục thành lập HĐTT. Thời gian để thành lập một HĐTT, nếu bị đơn có chiến lược trì hoãn, có thể tốn tới 1-2 tháng. Thời gian ấy đủ dài để bị đơn, nếu muốn, có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm một lý do nữa, về mặt lý thuyết, người ta cho rằng chỉ có tòa án, một cơ quan công lực, mới có quyền ra các lệnh tạm thời nhằm can thiệp vào tài sản của đương sự, đặc biệt là hạn chế các quyền định đoạt của họ. Nếu lệnh đó cần có hiệu lực đối với một bên thứ ba, ví dụ một công ty kho bãi đang lưu trữ hàng hóa tranh chấp của bên bán và bên mua, thì người ta càng khẳng định đó phải là một lệnh tòa, chứ không thể là lệnh từ một cơ quan tài phán tư do hai bên tự thỏa thuận. HĐTT nếu có là tòa án, thì cũng chỉ là tòa án tư, các lệnh tạm thời có thể có hiệu lực đối với hai bên đương sự, song khó có lý do để cho các lệnh đó hiệu lực hạn chế quyền của người thứ ba.
Ngoài ra, người ta còn băn khoăn rằng lệnh tạm thời còn phải được thi hành. Nếu lệnh đó do tòa án ban hành, khả năng thực thi sẽ tuân theo các quy định của tố tụng dân sự. Nếu lệnh đó do HĐTT ban hành, người ta cần sửa các quy định tương ứng về thi hành án, để đảm bảo lệnh của HĐTT cũng có hiệu lực thi hành tựa như lệnh tòa.
Đó là tóm lược những tranh luận liên quan đến việc ai sẽ có thẩm quyền cuối cùng quyết định về các lệnh tạm thời. Người Đức đã bổ sung Điều 1041 vào BLTTDS, Điều 1041 cho phép HĐTT (tức là Schiedgericht) có quyền ban hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các nước khác có quy định dè dặt hơn, ví dụ Luật Tố tụng dân sự 2001 của Tây Ban Nha, Điều 722, quy định rằng về nguyên tắc tòa thường tụng có thẩm quyền chung về biện pháp KCTT, trừ phi các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng liên quan đến điều khoản trọng tài. Ở Trung Hoa, Điều 28 LTT 1994 quy định khá dè dặt đại thể rằng nếu một bên muốn bảo quản tài sản trong vụ tranh tụng trọng tài, thì có quyền yêu cầu ủy ban trọng tài, ủy ban sẽ ra quyết định yêu cầu tòa án nhân dân ra các biện pháp cần thiết, nếu không có cơ sở mà vẫn yêu cầu thì phải bồi thường. Các quy định về biện pháp KCTT cũng có thể tìm thấy ở Điều 258 Luật Tố tụng dân sự Trung Hoa. Như vậy, nếu thỏa thuận trọng tài, các bên phải chờ HĐTT đã được lập, sau đó mới có quyền yêu cầu hội đồng này nhờ tòa án can thiệp, trừ trường hợp tranh chấp về hàng hải, theo Điều 28 Luật Hàng hải Trung Hoa các bên có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp KCTT kể cả khi HĐTT chưa được lập.
LTT 2010 của Việt Nam quy định rất uyển chuyển, và có vẻ như rất thận trọng rằng các bên có thể nhờ cậy đến tòa án (sau khi nộp đơn kiện tới trọng tài – Điều 53.1) hoặc trọng tài (sau khi lập HĐTT – các Điều 48, 49) yêu cầu ban hành các lệnh KCTT. Nếu yêu cầu được gửi tới cả hai nơi, thì có thể dịch Nôm rằng cơ quan tài phán nào nhận trước sẽ thụ lý, cơ quan nhận sau phải từ chối (theo Điều 49.3 LTT 2010, HĐTT phải từ chối yêu cầu, nếu đương sự đã yêu cầu tòa án; ngược lại theo Điều 53.5 LTT 2010, tòa án phải từ chối, nếu đương sự đã yêu cầu HĐTT).
Chúng tôi cho rằng, đây là một thiết kế rất khôn khéo, phù hợp với tình hình hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, như đã bình luận ở trên, tùy theo vụ việc, trên thực tế, có thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại trung tâm trọng tài và yêu cầu tòa án ra các lệnh tòa cho áp dụng biện pháp KCTT theo quy định của Điều 53 LTT 2010, bởi như thế người yêu cầu sẽ có một vài lợi thế: (i) thứ nhất không phải mất thời gian chờ thành lập HĐTT, (ii) thứ hai tòa án và hệ thống thi hành giúp việc thực thi biện pháp liên thông hơn.
Chứng cớ thuyết phục sự cần thiết của biện pháp KCTT
Cơ quan tài phán cần có chứng cớ để được thuyết phục rằng một lệnh can thiệp tạm thời là hợp lý. Điều 50 LTT 2010 cũng như Điều 117.1 BLTTDS 2004 có thể cần được hướng dẫn chi tiết hơn, song về cơ bản, tòa án hay HĐTT nhận định sự cần thiết dựa trên hồ sơ, chí ít phải có những nhận định căn bản sau:
– Thứ nhất, bên yêu cầu phải có căn cứ pháp lý tối thiểu cho yêu cầu chính, ví dụ nếu tranh chấp về mua bán thì phải có khế ước và các chứng từ liên quan;
– Thứ hai, bằng chứng, tài sản tranh chấp có nguy cơ bị tiêu hủy do đặc tính tự nhiên của nó; giữa yêu cầu áp dụng lệnh KCTT và yêu cầu chính phải có những mối liên quan xác đáng.
Để nhận định về sự cần thiết này, sau khi nhận đơn, bằng chứng và biện pháp bảo đảm HĐTT phải họp hoặc trao đổi và thống nhất quyết định giữa các trọng tài viên; hình thức phiên họp hay trao đổi này chưa được quy định chi tiết tại Điều 50, chỉ quy định tại Điều 50.5 LTT 2010 rằng HĐTT sẽ xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp KCTT trong thời hạn 03 ngày làm việc.
Biện pháp bảo đảm tương đương
Điều 120.1 BLTTDS 2004 và Điều 50.3 LTT 2010 có hai quy định tương đối giống nhau, buộc người yêu cầu biện pháp KCTT phải gửi tiền, vàng, đá quý, giấy tờ có giá hay tài sản khác do HĐTT hoặc tòa án ấn định làm biện pháp bảo đảm để cơ quan tài phán ra các lệnh tạm thời. Số tiền hay tài sản bảo đảm phải tương đương nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thi hành lệnh tòa phải thực hiện hoặc tương ứng giá trị thiệt hại có thể phát sinh do lệnh tạm thời mà HĐTT gây ra khi được áp dụng.
Sự khó khăn khi thể hiện hai điều luật này cũng xuất hiện trong Điều 1041.1 BLTTDS Đức khi tòa án trọng tài có quyền yêu cầu mỗi bên nộp một khoản bảo đảm hợp lý, người ta dùng chữ Angemessene Sicherheit, chứ không dùng chữ tương đương hay tương ứng như trong luật Việt Nam.
Ví dụ, nếu hai bên tranh chấp về một lô hàng trị giá một tỷ đồng, chắc tòa án sẽ không giải thích rằng tài sản bảo đảm phải tương ứng với một tỷ đồng, bởi giải thích như vậy quá bất lợi cho bên yêu cầu biện pháp KCTT, làm chi phí tranh tụng tăng đáng kể, và trên thực tế sẽ vô hiệu hóa khả năng sử dụng các lệnh tòa tạm thời. Có thể tòa sẽ giải thích theo hướng nếu các lệnh tòa phong tỏa tài sản bên bị được thực hiện, ví dụ giữ tàu biển, thì các thiệt hại thực tế có thể ước lượng từ lệnh là căn cứ tính ra khoản bảo đảm phải nộp tương ứng với các chi phí ấy. Đó có thể là các thiệt hại do tài khoản bị phong tỏa, các cơ hội bị bỏ lỡ do hàng hóa bị cấm bán, chi phí phát sinh do tài sản tranh chấp phải bảo tồn, cất trữ. Điều khó khăn khi xác định giá trị bảo đảm này có thể dự báo trên thực tế sẽ làm các trọng tài viên khá lưỡng lự trước các lệnh tạm thời, đặc biệt khi lệnh đó liên quan đến những khối tài sản ngày càng lớn.
Thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Điều 50.5 quy định các biện pháp KCTT do HĐTT ban hành được thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Nếu các lệnh tạm thời do tòa án quyết định, lệnh đó được thi hành theo Điều 126 BLTTDS và pháp luật thi hành án dân sự. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo Điều 2.1.e. Luật Thi hành án dân sự 2008 bao gồm các quyết định của trọng tài thương mại. Có thể cần giải thích quyết định này không chỉ bao gồm phán quyết (Arbitral arward, Urteil) mà bao gồm tất cả các quyết định khác trong tố tụng trọng tài, ví dụ các lệnh tạm thời.
– LTT 2010 là một thành tựu lập pháp quan trọng. Các quy định về biện pháp KCTT trong Luật này được thiết kế uyển chuyển và hợp lý, hiệu quả của chúng có thể cần phải chờ đợi sự phán xét từ thực tiễn và nên được đánh giá chung trong tổng thể hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dãn từ: http://www.nclp.org.vn/
PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA – Khoa Luật & Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright – Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.