Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Lao động của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Lao động, gọi:  1900.0191

1. Cơ sở pháp lý: 

– Bộ luật lao động năm 2019

– Nghị định số 145/2020/NĐ-CP

– Nghị định số 28/2020/NĐ-CP

2. Căn cứ áp dụng và nguyên tắc xử lý kỷ luật lao động sa thải

Tại BLLĐ 2019, để xác định căn cứ xử lý kỷ luật lao động (KLLĐ) đối với người lao động (NLĐ) bằng hình thức sa thải, trước hết NSDLĐ cũng phải tuân thủ các quy định chung về căn cứ để xử lý KLLĐ đối với NLĐ nói chung, đó là:

(i) NLĐ đã có hành vi vi phạm KLLĐ và

(ii) NLĐ có lỗi, bên cạnh đó NSDLĐ cũng phải tuân thủ các quy định riêng của pháp luật kèm theo đối với hình thức xử lý kỷ luật sa thải.

2.1. Về việc xác định hành vi vi phạm kỷ luật lao động

Để xác định hành vi vi phạm kỷ luật, phải dựa vào nội qui lao động của NSDLĐ, HĐLĐ thỏa thuận giữa các bên, các quy định của pháp luật để xác định. Bởi vì theo quy định tại Điều 117 BLLĐ 2019, KLLĐ là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh do NSĐLĐ ban hành trong nội quy lao động và do pháp luật quy định, tại Điều 127 BLLĐ 2019 quy định hành vi xử lý KLLĐ đối với NLĐ có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động (HĐLĐ) đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không có quy định là hành vi bị nghiêm cấm. Từ đó, có thể thấy rằng NLĐ chỉ bị xử lý KLLĐ nếu hành vi đó là hành vi vi phạm được quy định trong nội quy lao động, HĐLĐ hoặc theo quy định của pháp luật. So với quy định tại Điều 128 BLLĐ cũ 2012 quy định chỉ được xử lý kỷ luật đối với các hành vi vi phạm quy định tại Nội quy lao động, điểm mới của BLLĐ 2019 là đã bổ sung thêm các căn cứ khác là các quy định của pháp luật hoặc những nội dung được các bên thỏa thuận trong HĐLĐ để xác định hành vi vi phạm KLLĐ nói chung và xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải nói riêng.

Bên cạnh việc bảo đảm căn cứ chung nêu trên, khi áp dụng hình thức sa thải, NSĐLĐ phải tuân theo quy định riêng của pháp luật về các trường hợp được áp dụng hình thức xử lý KLLĐ. Theo Điều 125 BLLĐ 2019, hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được NSDLĐ áp dụng trong những trường hợp luật định sau đây:

(1) NLĐ có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý tại nơi làm việc;

(2) NLĐ có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của NSĐLĐ, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của NSĐLĐ hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;

(3) NLĐ bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật. Tái phạm là trường hợp NLĐ lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật này; 

(4) NLĐ tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng. Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

Có thể thấy rằng bên cạnh quy định mang tính khung cố định như trên, pháp luật lao động vẫn tạo độ mở nhất định đối với NSDLĐ để họ tiến hành xử lý KLLĐ bằng hình thức sa thải dối với NLĐ, điều này thể hiện qua các quy định tại trường hợp (2) và (3). Đối với trường hợp (2), luật không quy định cụ thể như thế nào là “hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của NSĐLĐ”, điều này có nghĩa NSDLĐ sẽ được chủ động quy định cụ thể trong Nội quy lao động về mức thiệt hại mà họ cho rằng nghiêm trọng, hay đặc biệt nghiêm trọng tùy thuộc vào quy mô doanh nghiệp, tính chất của hoạt động sản xuất kinh doanh, những yếu tố đặc thù riêng trong mỗi doanh nghiệp… Vì vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ có quy định riêng về mức độ thiệt hại nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng tại Nội quy lao động của doanh nghiệp để xem xét đánh giá xử lý KLLĐ bằng hình thức sa thải đối với NLĐ vi phạm kỷ luật. Đối với trường hợp (3) cũng tương tự, theo đó, luật không quy định cụ thể đối với hành vi vi phạm nào, mức độ, tính chất của hành vi ra sao mà sẽ bị kỷ luật bằng hình thức cách chức hoặc kéo dài thời hạn nâng lương, điều này doanh nghiệp được chủ động quy định trong Nội quy lao động hoặc thỏa thuận với NLĐ trong HĐLĐ để làm căn cứ xử lý KLLĐ. Đây là những quy định mở mà các doanh nghiệp cần lưu ý vận dụng để xây dựng, thiết lập, tăng cường KLLĐ, tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.   

2.2. Về việc xác định yếu tố lỗi của người lao động

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 122 BLLĐ 2019, để xử lý KLLĐ nói chung và sa thải nói riêng với NLĐ, NSDLĐ phải chứng minh được lỗi của NLĐ, lỗi này có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Điều này có nghĩa là NLĐ phải thực hiện các hành vi vi phạm kỷ luật nêu trên trong tình trạng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Vì vậy, nếu NLĐ thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì họ không bị xử lý KLLĐ (khoản 5 Điều 122 BLLĐ 2019). Đây là quy định đã được tiếp tục kế thừa từ BLLĐ cũ 2012. Tuy nhiên, về việc xác định lỗi của NLĐ, cần phải lưu ý rằng, đối chiếu quy định này thì nghĩa vụ chứng minh lỗi của NLĐ thuộc về NSDLĐ, do đó để xử lý kỷ luật với NLĐ, NSDLĐ phải chứng minh yếu tố lỗi một cách cụ thể, rõ ràng. Thực tế qua một số vụ việc cho thấy NSDLĐ yêu cầu NLĐ phải tự chứng minh để xem xét việc xử lý KLLĐ là không phù hợp với quy định.

Trên cơ sở các căn cứ để áp dụng hình thức xử lý KLLĐ sa thải nêu trên, cần tuân thủ các nguyên tắc về xử lý KLLĐ nói chung quy định tại Điều 122 và Điều 127 BLLĐ 2019 như sau:

(1) NSĐLĐ phải chứng minh được lỗi của NLĐ;

(2) Phải có sự tham gia của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở mà NLĐ đang bị xử lý kỷ luật là thành viên;

(3) NLĐ phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư của LVN Group hoặc tổ chức đại diện NLĐ bào chữa; trường hợp là người chưa đủ 15 tuổi thì phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật;

(4) Việc xử lý KLLĐ phải được ghi thành biên bản;

(5) Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý KLLĐ đối với một hành vi vi phạm KLLĐ;

(6) Khi một NLĐ đồng thời có nhiều hành vi vi phạm KLLĐ thì chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất;

(7) Không được xử lý KLLĐ đối với NLĐ đang trong thời gian sau đây: Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của NSĐLĐ; Đang bị tạm giữ, tạm giam; Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 của BLLĐ 2019; NLĐ nữ mang thai; NLĐ nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

(8) Không xử lý KLLĐ đối với NLĐ vi phạm KLLĐ trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

(9) Cấm xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, nhân phẩm của NLĐ;

(10) Cấm phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý KLLĐ; 

(11) Cấm xử lý KLLĐ đối với NLĐ có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong HĐLĐ đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không có quy định.

Khi tiến hành xử lý KLLĐ bằng hình thức sa thải, cần tuân thủ đúng và đầy đủ các nguyên tắc trên, nếu không đảm bảo các nguyên tắc này, việc xử lý kỷ luật bị coi là trái pháp luật và có thể bị hủy bỏ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ngoài ra, NSDLĐ có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại Điều 18 Nghị định 28/2020/NĐ-CP và phải bồi thường cho NLĐ theo quy định pháp luật tại Điều 41 BLLĐ 2019.  

3. Thời hiệu, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động sa thải

Việc xử lý KLLĐ nói chung và kỷ luật bằng hình thức sa thải nói riêng phải được thực hiện trong thời hiệu và theo trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Theo đó, về thời hiệu xử lý KLLĐ, Điều 123 BLLĐ 2019 quy định như sau: Thời hiệu xử lý KLLĐ là 06 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSĐLĐ thì thời hiệu xử lý KLLĐ là 12 tháng. Riêng đối với các trường hợp đang trong thời gian không tiến hành xử lý KLLĐ quy định tại khoản 4 Điều 122 BLLĐ 2019, khi hết thời gian quy định này, nếu hết thời hiệu hoặc còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày thì được kéo dài thời hiệu để xử lý KLLĐ nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên. Như vậy, đối chiếu với quy định tại khoản 4 Điều 122 BLLĐ 2019, cần lưu ý với những trường hợp sau để tính đúng thời hiệu xử lý KLLĐ với NLĐ vi phạm KLLĐ: NLĐ đang trong thời gian nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của NSĐLĐ; đang bị tạm giữ, tạm giam; đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 của Bộ luật này; NLĐ nữ mang thai; NLĐ nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng.

Thời hiệu xử lý KLLĐ là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó người có hành vi vi phạm kỷ luật sẽ không bị xử lý KLLĐ nữa. Quy định này nhằm loại bỏ những trường hợp xử lý kỷ luật không cần thiết khi thời gian đã trôi qua quá lâu, ý nghĩa của việc xử lý kỷ luật không còn nhiều nữa vì mục đích chính là để răn đe đối với NLĐ, để họ nâng cao ý thức chấp hành KLLĐ.

So với quy định tại khoản 4 Điều 123 và Điều 124 BLLĐ cũ 2012, quy định này của BLLĐ 2019 có điểm mới. BLLĐ cũ 2012 trước đây cũng quy định các trường hợp đang trong thời gian không xử lý KLLĐ tương tự như BLLĐ 2019, tuy nhiên việc kéo dài thời hiệu chỉ đặt ra khi hết hết thời gian đó mà cũng tương ứng với việc hết thời hiệu theo quy định, còn đối với trường hợp hết thời gian đó mà thời hiệu vẫn còn dù là rất ngắn, có thể 1, 2 ngày thì quy định của BLLĐ cũ 2012 là NSDLĐ tiến hành xử lý KLLĐ ngay.

Qua đó, có thể thấy rằng, so sánh với quy định của BLLĐ trước đây, quy định hiện nay tại BLLĐ 2019 có nhiều điểm tiến bộ, điều này vừa vẫn đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ như quyền được tham gia bào chữa để đảm bảo tính khách quan, công bằng hay đảm bảo những quyền và ưu tiên nhất định đối với lao động nữ… Đồng thời cũng tạo điều kiện cho NSDLĐ thực hiện được quyền quản lý, điều hành, giám sát đối với NLĐ thông qua việc đảm bảo trật tự KLLĐ của doanh nghiệp, thực hiện việc xử lý KLLĐ đối với NLĐ có hành vi vi phạm KLLĐ trong đơn vị, tránh tình trạng NLĐ cố tình sử dụng các căn cứ trên để né tránh việc bị xử lý KLLĐ như quy định trước đây do nếu thời gian còn lại để xử lý KLLĐ quá ngắn NSDLĐ không thể tiến hành đầy đủ các thủ tục xử lý kỷ luật đối với NLĐ, không thể xử lý KLLĐ được.  Tuy nhiên, một điểm cần phải lưu ý đó là, thời điểm làm căn cứ để tính thời hiệu xử lý KLLĐ đối với NLĐ là kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm của NLĐ, tránh nhầm lẫn với thời điểm mà NSDLĐ phát hiện ra hành vi vi phạm của NLĐ, nếu xác định sai thời điểm làm căn cứ tính thời hiệu xử lý KLLĐ sẽ có thể dẫn đến việc ra quyết định xử lý khi đã hết thợi hiệu theo quy định pháp luật, việc xử lý sẽ bị coi là trái pháp luật.

Bên cạnh việc tuân thủ quy định về thời hiệu xử lý KLLĐ, theo quy định tại khoản 6 Điều 122 BLLĐ 2019 và hướng dẫn chi tiết thi hành tại Điều 70 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của BLLĐ về điều kiện lao động và QHLĐ (sau đây gọi tắt là Nghị định 145/2020/NĐ-CP), việc xử lý KLLĐ nói chung và sa thải đối với NLĐ nói riêng phải theo trình tự, thủ tục như sau:

Thứ nhất, khi phát hiện NLĐ có hành vi vi phạm KLLĐ tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm, NSĐLĐ tiến hành lập biên bản vi phạm và thông báo đến tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở mà NLĐ là thành viên, người đại diện theo pháp luật của NLĐ chưa đủ 15 tuổi. Trường hợp NSĐLĐ phát hiện hành vi vi phạm KLLĐ sau thời điểm hành vi vi phạm đã xảy ra thì thực hiện thu thập chứng cứ chứng minh lỗi của NLĐ.

Thứ hai, trong thời hiệu xử lý KLLĐ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 123 của BLLĐ, NSĐLĐ tiến hành họp xử lý KLLĐ như sau:

– Ít nhất 05 ngày làm việc trước ngày tiến hành họp xử lý KLLĐ, NSĐLĐ thông báo về nội dung, thời gian, địa điểm tiến hành cuộc họp xử lý KLLĐ, họ tên người bị xử lý KLLĐ, hành vi vi phạm bị xử lý KLLĐ đến các thành phần phải tham dự họp quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 122 của BLLĐ 2019, bảo đảm các thành phần này nhận được thông báo trước khi diễn ra cuộc họp;

– Khi nhận được thông báo của NSĐLĐ, các thành phần phải tham dự họp quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 122 của BLLĐ 2019 phải xác nhận tham dự cuộc họp với NSĐLĐ. Trường hợp một trong các thành phần phải tham dự không thể tham dự họp theo thời gian, địa điểm đã thông báo thì NLĐ và NSĐLĐ thỏa thuận việc thay đổi thời gian, địa điểm họp; trường hợp hai bên không thỏa thuận được thì NSĐLĐ quyết định thời gian, địa điểm họp;

– NSĐLĐ tiến hành họp xử lý KLLĐ theo thời gian, địa điểm đã thông báo quy định tại điểm a, điểm b khoản này. Trường hợp một trong các thành phần phải tham dự họp quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 122 của BLLĐ không xác nhận tham dự cuộc họp hoặc vắng mặt thì NSĐLĐ vẫn tiến hành họp xử lý KLLĐ. Nội dung cuộc họp xử lý KLLĐ phải được lập thành biên bản, thông qua trước khi kết thúc cuộc họp và có chữ ký của người tham dự cuộc họp quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 122 của BLLĐ 2019, trường hợp có người không ký vào biên bản thì người ghi biên bản nêu rõ họ tên, lý do không ký (nếu có) vào nội dung biên bản.

Quy định của Nghị định 145/2020/NĐ-CP so với các quy định hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục xử lý KLLĐ tại Nghị định 148/2018/NĐ-CP và Nghị định 05/2015/NĐ-CP trước đây có khá nhiều điểm mới, Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định theo hướng đơn giản hóa về trình tự, thủ tục xử lý KLLĐ, vừa đảm bảo tính khách quan công bằng cho NLĐ nhưng cũng đảm bảo cho NSDLĐ có thể thực hiện được quyền quản lý, điều hành, giám sát đối với NLĐ, đặc biệt là việc xử lý  KLLĐ với NLĐ. Cũng cần lưu ý rằng, việc thông báo cho NLĐ, tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở mà họ là thành viên, người đại diện theo pháp luật của người chưa đủ 15 tuổi luật không quy định bắt buộc phải thông báo bằng văn bản, tuy nhiên điều này có thể ảnh hưởng nhất định đối với giá trị của quyết định xử lý KLLĐ nếu trường hợp NSDLĐ thông báo bằng lời nói mà các thành phần này không đến dự, không có mặt tại phiên họp xử lý KLLĐ mà NSDLĐ vẫn tiến hành phiên họp và ra quyết định xử lý KLLĐ, khi đó khả năng phát sinh tranh chấp liên quan đến quyết định xử lý KLLĐ đặc biệt với hình thức sa thải là rất lớn. Các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động cần lưu ý vấn đề này. 

Thứ ba, trong thời hiệu xử lý KLLĐ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 123 của BLLĐ 2019, người có thẩm quyền xử lý KLLĐ ban hành quyết định xử lý KLLĐ và gửi đến các thành phần phải tham dự quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 122 của BLLĐ 2019.

Liên quan đến quyết định xử lý KLLĐ nói chung và quyết định xử lý  kỷ luật đối với hình thức sa thải nói riêng cũng như chủ thể có thẩm quyền xử lý KLLĐ, cần lưu ý về điểm mới của BLLĐ 2019, đó là, đối chiếu với quy định hướng dẫn chi tiết thi hành tại điểm i khoản 2 Điều 69 Nghị định 145/2020/NĐ-CP có quy định như sau: “Người có thẩm quyền xử lý KLLĐ: người có thẩm quyền giao kết HĐLĐ bên phía NSĐLĐ quy định tại khoản 3 Điều 18 của BLLĐ 2019 hoặc người được quy định cụ thể trong nội quy lao động”. Do vậy, có thể thấy rằng, so với BLLĐ cũ 2012 và các văn bản hướng dẫn bộ luật này trước đây, BLLĐ 2019 đã quy định về chủ thể có thẩm quyền xử lý KLLĐ mở rộng hơn rất nhiều. Theo đó, nếu trường hợp doanh nghiệp không có Nội quy lao động, thì người có thẩm quyền xử lý KLLĐ là những người có thẩm quyền giao kết HĐLĐ theo quy định tại khoản 3 điều 18 BLLĐ 2019 gồm: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; Người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; Cá nhân trực tiếp sử dụng lao động. Quy định này tương tự như quy định tại BLLĐ 2012 và Nghị định 148/2018/NĐ-CP trước đây.

Tuy nhiên, nếu trường hợp doanh nghiệp có ban hành Nội quy lao động thì những chủ thể sau sẽ có thẩm quyền xử lý KLLĐ: (1) Những người có thẩm quyền giao kết HĐLĐ theo quy định tại khoản 3 điều 18 BLLĐ 2019 nêu trên, và (2) Những người mà nội quy lao động quy định là có thẩm quyền xử lý KLLĐ, chủ thể này hoàn toàn do ý chí của NSDLĐ quyết định và ghi nhận trong Nội quy lao động. Quy định này góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao động tiến hành xử lý KLLĐ, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có phạm vi hoạt động rộng lớn, trên nhiều địa bàn, địa phương khác nhau.  

4. Hậu quả pháp lý của việc xử lý kỷ luật lao động sa thải

Đối chiếu với các quy định của BLLĐ 2019 tại các điều: Điều 34, Điều 46, Điều 48, Điều 131 BLLĐ 2019 và hướng dẫn chi tiết thi hành tại Điều 73 Nghị định 145/2020/NĐ-CP có thể chia hậu quả pháp lý của việc xử lý KLLĐ bằng hình thức sa thải thành tương ứng với 2 trường hợp:

Một là, việc sa thải là đúng pháp luật, tuân thủ đúng các quy định pháp luật đã phân tích tại các mục 1, 2 nêu trên khi tiến hành xử lý KLLĐ. Khi đó, theo khoản 8 Điều 34 BLLĐ 2019, HĐLĐ của các bên chấm dứt, NLĐ chấm dứt QHLĐ với NSDLĐ. Các bên thực hiện trách nhiệm của mình khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại Điều 48 BLLĐ 2019, cụ thể:

Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày: NSĐLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động; NSĐLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế; Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.

Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của NLĐ theo thỏa ước lao động tập thể, HĐLĐ được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản. Cũng cần lưu ý về vấn đề trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 BLLĐ 2019 và hướng dẫn chi tiết thi hành tại khoản 4 Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, mặc dù NLĐ bị sa thải thì không thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp thôi việc, tuy nhiên có những trường hợp NLĐ có thời gian làm việc lâu dài tại doanh nghiệp theo nhiều HĐLĐ kế tiếp nhau theo quy định tại khoản 2 Điều 20 của BLLĐ mà khi chấm dứt từng HĐLĐ chưa được chi trả trợ cấp thôi việc thì đối với hợp đồng cuối cùng mới bị kỷ luật sa thải họ không được hưởng trợ cấp thôi việc, với những hợp đồng trước đó họ vẫn được hưởng trợ cấp thôi việc, NSDLĐ phải có trách nhiệm chi trả cho họ. Thời gian thực tế làm việc cho NSĐLĐ để tính trợ cấp thôi việc trong trường hợp này là tổng thời gian làm việc theo các HĐLĐ trừ thời gian làm việc thực tế theo HĐLĐ mà NLĐ bị xử lý KLLĐ sa thải, trừ đi thời gian đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

NSĐLĐ có trách nhiệm sau đây: Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu NSĐLĐ đã giữ của NLĐ; Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của NLĐ nếu NLĐ có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do NSĐLĐ trả.

Hai là, việc sa thải không tuân thủ đúng các quy định đã nêu tại mục 1, 2, khi đó việc sa thải này là  trái pháp luật. Theo quy định tại Điều 131 BLLĐ 2019 và hướng dẫn chi tiết thi hành tại Điều 73 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, trường hợp NSĐLĐ quyết định xử lý KLLĐ theo hình thức sa thải trái quy định của pháp luật thì ngoài nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của Chính phủ về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực lao động hoặc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo trình tự quy định tại Mục 2 Chương XIV của BLLĐ 2019 thì NSĐLĐ có nghĩa vụ thực hiện quy định tại Điều 41 của BLLĐ 2019. Theo đó, NSDLĐ sa thải trái pháp luật phải thực hiện nghĩa vụ tại Điều 41 BLLĐ 2019 gồm:

– Phải nhận NLĐ trở lại làm việc theo HĐLĐ đã giao kết; và phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày NLĐ không được làm việc và phải trả thêm cho NLĐ một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ (khoản bồi thường 1). Sau khi được nhận lại làm việc, NLĐ hoàn trả cho NSĐLĐ các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của NSĐLĐ. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HĐLĐ mà NLĐ vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ.

– Trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản bồi thường 1, NSĐLĐ còn phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của BLLĐ 2019 để chấm dứt HĐLĐ.

– Trường hợp NSĐLĐ không muốn nhận lại NLĐ và NLĐ đồng ý thì ngoài khoản tiền NSĐLĐ phải trả là khoản bồi thường 1 và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho NLĐ nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ để chấm dứt HĐLĐ.

Các bên cần lưu ý thực hiện đúng và đầy đủ quy định về trách nhiệm của mình trong các trường hợp sa thải nêu trên, đặc biệt với NSDLĐ cần lưu ý nếu thực hiện không đúng đặc biệt là các quy định về thời hạn thanh toán các khoản khi chấm dứt HĐLĐ, không trả hoặc trả không đủ tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cho NLĐ theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền bồi thường cho NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật; không hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại những giấy tờ khác đã giữ của NLĐ sau khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định của pháp luật thì NSDLĐ có thể phải bị xử lý vi phạm hành chính với hình thức phạt tiên lên tới 20 triệu đồng kèm theo đó là các biện pháp khắc phục gồm: Buộc trả đủ tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cho NLĐ cộng với khoản tiền lãi của số tiền chưa trả tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi không trả hoặc trả không đủ tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cho NLĐ; Buộc hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại những giấy tờ khác đã giữ cho NLĐ đối với hành vi không hoàn thành thủ tục xác nhận, trả lại những giấy tờ khác đã giữ của NLĐ sau khi chấm dứt HĐLĐ (theo Điều 11, Điều 18 Nghị định 28/2020/NĐ-CP).

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập