1. Điều khoản thanh toán

Trong lĩnh vực buôn bán quốc tế, thanh toán được giải quyết bằng loại tiền của nước xuất khẩu hoặc bằng một loại tiền khác được chấp nhận trên thị trường quốc tế.

Chính điều này thường ngụ ý là người nhập khẩu phải mua tiền của nước xuất khẩu bằng đồng tiền của nước mình, và chuyển số tiền này sang nước cư trú của người xuất khẩu.

Nói chung, các Hiệp định tương mại tự do (FTA) đều có điều khoản thanh toán ngăn cấm việc hạn chế chuyển tiền thanh toán – nghĩa là những hạn chế đối với đồng tiền thanh toán của hoạt động xuất khẩu.

Điều này có nghĩa là một khi các nhà nhập khẩu có được số tiền nhất định bằng đồng tiền của nhà xuất khẩu, thì họ có thể, không bị một ngăn trở nào, chuyển số tiền đó ra nước ngoài. Trong thực tiễn, việc chuyển tiền như vậy được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Các nhà nhập khẩu phát lệnh tới ngân hàng để chuyển số tiền đã thoả thuận vào tài khoản của nhà xuất khẩu tại những ngân hàng đặt tại nước xuất khẩu.

Ở trong thực tế nhiều trường hợp của thanh toán không bình thường có thể xảy ra. Một trong những trường hợp đó đã mô tả trong thương mại giống như hàng đôi hàng, nhưng các hoạt động giao dịch có thể được giải quyết bằng đồng tiền của nước thứ ba, hoặc của nước nhập khẩu, hoặc bằng cách thức nào đó được nhà xuất khẩu và nhập khẩu đồng ý.

Việc nhà nước hạn chế chuyển tiền không phải là việc bất bình thường và lại dễ có hiệu lực thi hành vì thường có những quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương, ngân hàng này thường do chính phủ kiểm soát. Nhưng những hạn chế đó có thể dễ dàng vượt qua nếu như việc tiếp cận ngoại tệ/ không bị hạn chế. Bởi vậy, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thường quy định cấm các hạn chế ve thanh toán.

Việc cấm các hạn chế về thanh toán ngăn chặn các bên cản trở việc tiếp cận ngoại tệ bằng cách kiểm soát thị trường hối đoái.

Trong thực tiễn, các nhà nhập khẩu mua số ngoại tệ cần thiết tại những ngân hàng của họ theo tỉ giá hàng ngày, với số bản tệ tương đương.

Thông thường, bản thân ngân hàng sẽ hoạt động như một nhà buôn trên thị trường ngoại tệ với danh nghĩa chính họ và danh nghĩa khách hàng. Những hạn chế tiếp cận ngoại tệ được làm dưới nhiều hình thức như đòi hỏi phải ký quỹ ngoại tệ, tỉ giá ngoại hối bất lợi, trì hoãn phi lý, giới hạn số ngoại tệ mà một đại lý được phép tiếp cận hoặc thậm chí cấm giữ ngoại tệ.

Do kết quả của việc cấm hạn chế chuyển ngoại tệ và tiếp cận ngoại tệ, các đại lý tư nhân sẽ được cho quyền tự do tiếp cận ngoại tệ để giải quyết thanh toán các hoạt động kinh doanh của mình và cũng sẽ được tự do chuyển tiền ra nước ngoài, có lợi cho nhà cung cấp ngoại quốc. Điều tương tự cũng đúng đối với chính phủ nước xuất khâu bị cấm, không được hạn chế các nhà xuất khẩu tiếp cận những khoản thu của họ bằng ngoại tệ, cũng như ngăn trở các nhà xuất khẩu không được đổi số ngoại tệ họ kiếm được thành bản tệ.

 

2. Thanh toán là gì?

Thanh toán đơn giản là thuật ngữ ngắn gọn mô tả việc chuyển giao các phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Tiền là phương tiện thực hiện trao đổi hàng hóa, đồng thời là việc kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Sự vận động của tiền tệ có thể tách rời hay độc lập tương đối với sự vận động của hàng hoá. Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền không chỉ sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra ngoài phạm vi trao đổi như nộp thuế, trả lương, đóng góp các khoản chi dịch vụ …

Lưu thông không dùng tiền mặt là các quá trình tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không trực tiếp bằng tiền mặt mà thực hiện bằng cách trích chuyển trên các tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc bù trừ lẫn nhau giữa những người phải thanh toán và những người thụ hưởng.

Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường và được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính đối nội cũng như đối ngoại. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là do yêu cầu phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển càng cao, khối lượng hàng hoá trao đổi trong nước và ngoài nước càng lớn thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.

Xét về mặt lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động của tiền tệ. Ở đây, tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá hình thức giá trị của hàng hoá và dịch vụ.

Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ có quá trình chứa đựng những công nghệ tinh vi và phức tạp. Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán có thể sử dụng tiền đủ giá (vàng) hoặc dấu hiệu giá trị.

Trở ngại chính của tiền giấy và tiền kim loại là chúng dễ bị đánh cắp và có thể tốn nhiều chi phí vận chuyển; để khắc phục nhược điểm này, cùng với bước phát triển của hệ thống thanh toán là sự ra đời của séc trong hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Điều này cải tiến một bước rất quan trọng trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán. Chúng có thể được sử dụng bù trừ trong thanh toán, giảm chi phí vận chuyển và đặc biệt là nó an toàn, ghi theo số lượng tiền tuỳ ý. Tuy nhiên, nó có hai nhược điểm cơ bản: thanh toán chậm do không được ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ hưởng và chi phí in ấn, quản lý còn cao.

 

3. Đặc điểm của thanh toán 

Thanh toán có thể kể đến các đặc điểm dưới đây: 

– Việc thanh toán có thể được thực hiện thông qua các phương thức: chuyển tiền, nhờ thu,…

– Việc thanh toán có thể được diễn ra trước, trong hoặc sau quá trình giao dịch nhưng phải bảo đảm thời hạn thanh toán được thỏa thuận giữa các bên.

– Người có nghĩa vụ thanh toán có thể thanh toán từng phần hoặc toàn bộ số tiền tùy thuộc vào khả năng tài chính và thỏa thuận của các bên trong giao dịch.

– Việc thanh toán phải dựa trên giá trị của tài sản (đối với hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê,…) hoặc khả năng sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng (đối với hợp đồng dịch vụ).

 

4. Tín dụng ngắn hạn và trung hạn

Trả tiền ngay cũng đã được xem xét cho kinh doanh quốc tế, nhưng các thương nhân cũng sử dụng những phương tiện khác do hệ thống ngân hàng đưa ra để thanh toán các giao dịch thương mại, một trong các phương tiện đó là tín dụng ngắn hạn và trung hạn.

Bởi chính bản chất của chúng, tín dụng khác với trả tiền ngay và, ở giới hạn đó, không trực tiếp liên quan đến thương mại trong nghĩa hẹp của từ này. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh này, chúng được sử dụng rộng rãi nhằm mục đích thương mại, đặc biệt khi các giao dịch dính líu tới rủi ro khả năng thanh toán từ phía nhà nhập khẩu. Loại tín dụng thường được sử dụng là tín dụng chứng từ, hối phiếu và các phương tiện tương tự.

Loại giao dịch này dính líu tới nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và các ngân hàng của mỗi bên. Ngân hàng bên xuất khẩu cam kết sẽ trả cho nhà xuất khẩu số tiền của lần giao dịch căn cứ vào chứng nhận của người này là hàng hoá đã được giao lên tàu (FOB). Tiếp đó ngân hàng bên xuất khẩu sẽ đòi số tiền ấy từ ngân hàng bên nhập khẩu, phù hợp với hợp đồng tương ứng đã thành lập trước đó. Kết quả là nghĩa vụ phải trả tiền hàng của nhà nhập khẩu được chuyển sang ngân hàng của mình.

Những tín dụng này thường có thời hạn từ 1 đến 3 tháng và một cách rất hợp lý, có thể được coi là thích hợp với các hoạt động thương mại đo Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) điều chỉnh. Những hạn chế đối với tín dụng thương mại ngắn hạn và trung hạn có thể là ngáng trở đáng kể đối với tự do thương mại. Do vậy, các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) cho phép cấm đoán các hạn chế liên quan tới những tín dụng này. Những loại và hình thức hạn chế liên quan không được định nghĩa sâu hơn – vì số lượng tiềm tàng của chúng – cho nên việc cấm đoán này áp dụng với tất cả mọi hình thức có thể có của sự hạn chế.

 

5. Khái niệm về Xuất khẩu và nhập khẩu

Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. xuất nhập khẩu là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.

Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.

Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.

Đối với người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá thị hiếu, tập quán tiêu dùng khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, xu hướng biến động của nó. Những điều đó trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất nhập khẩu để nắm bắt được .

Theo quy định tại Điều 28 Luật Thương mại 2005 thì khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể như sau:

– Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

– Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. 

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).