1. Giới thiệu mua sắm chính phủ trong Công ước EFTA

Công ước EFTA không có bất kỳ nghĩa vụ nào liên quan đến mua sắm của chính phủ, xem điều này. Cả bốn quốc gia EFTA đều là thành viên của hiệp định đa phương của WTO về mua sắm chính phủ (GPA). Thông qua hiệp định này, các Quốc gia EFTA thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến các quy tắc quản lý mua sắm, các lĩnh vực được đề cập và các ngưỡng. Các cam kết theo GPA là điều kiện thuận lợi nhất mà các Quốc gia EFTA cung cấp cho bất kỳ đối tác nào và do đó cung cấp cho các Quốc gia EFTA quyền tiếp cận không phân biệt đối xử vào thị trường của nhau.

 

2. Khái niệm mua sắm công (mua sắm chính phủ)

Theo quy tắc về mua sắm công đã được thông qua cả ở cấp quốc gia và cấp quốc tế. Bản Thoả thuận Marrakesh thiết lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bao gồm cả Hiệp định Mua sắm Chính phủ đa biên. Liên minh châu Âu (EU), với tư cách là bộ phận của thị trường nội khối, đã chấp thuận những bản chỉ dẫn toàn diện trong lĩnh vực này.

Ngoài ra, các hiệp định thương mại khu vục như Công ước Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu (EFTA), và các Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs) như EFTA-FTAs với các nước thứ ba cũng có những điều khoản về mở của thị trường mua sắm công.

Không phải tất cả các nước đều là thành viên của các hiệp định quốc tế. Tuy nhiên, các nước có thể đã chấp thuận luật lệ quốc gia mà ít hay nhiều đều tuân thủ các quy tắc quốc tế.

Lĩnh vực và phạm vi của các hiệp định quốc tế có thể khác nhau. Ví dụ, Hiệp định Mua sắm Chính phủ của WTO (GPA) điều chỉnh việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ và giao thầu công trình bởi các cơ quan công quản trung ương và dưới cấp trung ương.

Những mua sắm bởi các nhà thầu trong lĩnh vực công ích cũng được gộp vào nhưng ở mức độ ít hơn so với các chỉ dẫn của Cộng đồng châu Âu (EC) và trong Hiệp định EEA.

Mặt khác, Hiệp định FTA của EFTA với những nước Trung và Đông Âu lại có những điều khoản về tự do hoá thị trường mua sắm công chỉ đối với việc mua sắm hàng hoá tiến hành với những cơ quan chính phủ cấp trung ương.

Mua sắm công và cạnh tranh được gắn kết với nhau. Thực tiễn mua sắm công ưu đãi một số doanh nghiệp có thể có tác dụng tiêu cực đối với cạnh tranh và làm biến dạng buôn bán theo một kiểu giống như hành vi “ưu tiên” (thực tế là hạn chế kinh doanh và lạm dụng vị trí chủ đạo) hoặc có viện trợ quá mức của Nhà nước.

Những quy tắc mua sắm công phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Chúng đảm bảo mặt bằng sân chơi cho các nhà thầu quan tâm tới việc cung cấp hàng hoặc dịch vụ cho các cơ quan công quản. Do kết quả của việc tăng độ cạnh tranh, các nguồn lực sẽ được phân bổ hiệu quả hơn và ngân sách sẽ được sử dụng kinh tế hơn. Những chính sách quốc gia mua sắm hạn chế cạnh tranh và dẫn tới chi phí cao hơn vì những chính sách đó không đếm xỉa tới những khác biệt về giá giữa các nước và những hiệu quả dài hạn của việc mở cửa thị trường.

Mua sắm công chiếm một phần đáng kể GDP ở đa số các nước châu Âu và các nơi khác. Chẳng hạn, ước tính tổng trị giá mua sắm bị chi phối bởi các nguyên tắc của cộng đồng, các quy tắc, hoặc các hướng dẫn, là 1.005 triệu EUR, năm 1998, chiếm 13,5% GDP.

Nếu các chính phủ được phép giữ thị trường mua sắm khép kín không có cạnh tranh, do vậy bỏ quên việc quản lý kinh tế có quy củ thì những lợi ích thu được từ tự do hoá thương mại sẽ có thể bị tổn hại nghiêm trọng.

 

3. Đặc điểm Mua sắm chính phủ

Mua sắm của chính phủ được hiểu là việc chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ của chính phủ một quốc gia. 

Mua sắm của chính phủ là yếu tố chính trong việc xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia (GDP là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định trong một thời kỳ nhất định).

– Mua sắm chính phủ bao gồm các đặc điểm sau:

Một trong những phương pháp tính GDP của một quốc gia là cộng tất cả chi tiêu trong nền kinh tế, được chia làm bốn loại chính như sau:

-Tiêu dùng cá nhân (C);

– Chi tiêu để đầu tư kinh doanh (I),

– Mua sắm của chính phủ để mua hàng hóa và dịch vụ (G),

– Xuất khẩu ròng (NX).

Bốn yếu tố này tổng hợp thành các yếu tố để tính GDP của một quốc gia. Trong đó mua sắm chính phủ là yếu tố đặc biệt, do đó các khoản Mua sắm của chính phủ được chia thành chi tiêu mua hàng hóa dịch vụ của các địa phương, chi tiêu chính phủ cho quốc phòng an ninh. Mua sắm chính phủ nắm tỷ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc nội.

Do nhu cầu của quốc gia trong thòi đại hiện đại hóa mà mua sắm của chính phủ đã tăng nhanh so với các thập kỷ trước.

Thêm một đặc điểm là mua sắm của chính phủ được coi là một yếu tố quan trọng của một nền kinh tế hiệu quả trong lí thuyết của Keynes.

Theo lý thuyết này thì việc tăng hoặc giảm chi tiêu chính phủ là một công cụ chính yếu để điều chỉnh chu kì kinh tế do tỷ trọng mua sắm chính phủ lớn.

 

4. Giới thiệu về Công ước EFTA

Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, được gọi đơn giản là EFTA, bao gồm bốn quốc gia thành viên: Na Uy, Thụy Sĩ, Liechtenstein và Iceland. Nhìn chung, các quốc gia bao gồm một khu vực kết hợp của 204.500 dặm vuông và có quy mô dân số khoảng 13.580.000.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người trong khu vực thương mại này được báo cáo ở mức 58.714 đô la, tương đương với khoảng 44.828 đô la khi điều chỉnh sức mua. Ngôn ngữ chính thức của EFTA là tiếng Anh, được sử dụng trong các cuộc họp và các tài liệu quản lý, mặc dù có tổng cộng 7 ngôn ngữ chính thức được các quốc gia thành viên sử dụng. EFTA có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.

EFTA được thành lập vào tháng 1 năm 1960, thông qua việc ký kết thỏa thuận thương mại tại Công ước Stockholm được tổ chức tại Cung điện Hoàng tử ở Stockholm, Thụy Điển. Các thành viên sáng lập của EFTA là: Na Uy, Vương quốc Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha và Đan Mạch. Thành lập của nó là để đáp trả việc loại bỏ các thành viên sáng lập khỏi Cộng đồng kinh tế châu Âu, sau này phát triển thành Liên minh châu Âu ngày nay. Một trong những lợi ích đầu tiên được thiết lập bởi EFTA là loại bỏ hải quan hoặc thuế đối với hàng hóa công nghiệp. Việc xóa này không phải là ngay lập tức, mà là diễn ra theo một mốc thời gian được chỉ định. 

Công ước EFTA cập nhật, Công ước Vaduz, được ký kết vào ngày 21 tháng 6 năm 2001 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2002, song song với các hiệp định song phương EU-Thụy Sĩ.  

Công ước Vaduz bao gồm tất cả các khía cạnh quan trọng của thương mại hiện đại và củng cố đáng kể mối quan hệ giữa các nước EFTA. Công ước sửa đổi đã tăng cường sự gắn kết trong quan hệ kinh tế giữa các Quốc gia Thành viên EFTA và cung cấp một nền tảng chung nâng cao để phát triển quan hệ của họ với các đối tác thương mại trên toàn thế giới.

Các nước EFTA hiện được hưởng lợi từ mối quan hệ gần như đặc quyền giữa họ giống như với EU. Công ước áp dụng hiệu quả cho các mối quan hệ giữa Thụy Sĩ và các Quốc gia EEA EFTA, vì Hiệp định EEA áp dụng cho các quan hệ thương mại giữa Iceland, Liechtenstein và Na Uy. Nó được cập nhật bởi Hội đồng EFTA thường xuyên để phản ánh những phát triển theo Hiệp định EEA và các hiệp định song phương của Thụy Sĩ.

 

5. Phân tích về mua sắm chính phủ trong Công ước EFTA

Điều 14 Công ước EFTA có những quy định về mua sắm công. Điều này quy định rằng không được phân biệt đối xử những hoạt động kinh doanh công nhằm ưu đãi hoặc bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Thuật ngữ “hoạt động kinh doanh công” có nghĩa là các nhà cầm quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương, các doanh nghiệp công và những tổ chức khác mà bằng những tổ chức này, một Nhà nước Thành viên, do luật định hoặc theo thông lệ, kiểm soát hoặc tác động đáng kể tới việc nhập khẩu từ, hoặc xuất khẩu sang lãnh thổ của một Nhà nước Thành viên.

Điều khoản này đã được Hội đồng diễn giải một cách rất khái quát. Các Nhà nước Thành viên được tự do trong việc tổ chức bất kỳ hệ thống mua sắm nào mà họ muốn, miễn là không có mục đích bảo hộ hoặc phân biệt đối xử. Những quy định luật pháp dẫn tới những ưu tiên bắt buộc sẽ không được áp dụng trong quan hệ với các nhà cung cấp trong EFTA. Theo Hội đồng, hệ thống không phân biệt đối xử bao hàm:

– Những cuộc thầu công khai sẽ phải được công bố một cách thích đáng và đủ thời gian cho phép nộp đơn dự thầu

– Các cuộc gọi thầu lựa chọn sẽ cho phép các nhà cung cấp trong nước và các nhà cung cấp khác trong EFTA cơ hội ngang bằng nhau để cạnh tranh.

– Những gói thầu duy nhất được sử dụng chỉ khi mà việc gọi thầu cạnh tranh (công khai hoặc lựa chọn) rõ ràng là không hợp lý và không thực hành được.

Không được đề ra những giới hạn thời gian hoặc những đòi hỏi đặc biệt làm cho nhà cung cấp EFTA khó khăn hơn trong cạnh tranh với các nhà cung cấp nội địa để có được hợp đồng. Việc áp dụng các tiêu chí phi thương mại (nghĩa là những tiêu chí khâc với tiêu chí khách quan liên quan tới giá, chất lượng, điều kiện giao hàng, v.v…) chỉ hợp với Điều 14 nếu như trong thực tế, việc này không dẫn tới việc bảo hộ hoặc phân biệt đối xử.

Quy định trên chỉ áp dụng với họp đồng cung cấp hàng mà thôi. Tuy nhiên, về hợp đồng dịch vụ và hợp đồng xây dựng, thì không cho phép các cơ quan áp đặt bất kỳ điều kiện nào đối với việc mua sắm và bị xem là không hợp với Điều 14.

Những quy tắc đều rất chung. Việc sử dụng những quy tắc này và tầm quan trọng của chúng đã bị giới hạn, thậm chí ở mức độ lớn hơn vì tất cả các nước thành viên EFTA, trừ Island, đều là các bên của WTO GPA, và tất cả các nước EFTA, trừ Thuy Sĩ, đều là bên của Hiệp định EEA. Do những Hiệp định này có những quy tắc rất chi tiết, nên trong thực tiễn, chúng là cơ sở pháp lý cho việc họp tác giữa các nước EFTA.

 

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).