1. Tranh chấp thương mại quốc tế là gì?
Tranh chấp thương mại quốc tế là những mâu thuẫn phát sinh khi một trong các bên vi phạm, hay nói cách khác là không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của mình trong hoạt động thương mại quốc tế.
Tranh chấp thương mại phát sinh là do không thực hiện hay thực hiện không đúng như hợp đồng trong hoạt động thương mại. Như vậy có thể nói rằng tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế là những tranh chấp phát sinh do một trong các bên không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình do hợp thương mại quốc tế qui định.
Chủ thể của loại tranh chấp này là các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế không phụ thuộc vào việc các bên là thương nhân hay là nhà nước.
Trong thực tiễn hoạt động thương mại nói chung, loại vi phạm này được thể hiện ở ba khía cạnh:
– Vi phạm liên quan đến các sự kiện pháp lí;
– Vi phạm liên quan đến việc giải thích hợp đồng hay các vấn đề pháp lí khác;
– Vi phạm liên quan đến cả hai loại trên, ví dụ không có khả năng thực hiện hợp đồng.
2. Thế nào là các trường hợp bất khả kháng?
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bất khả kháng tại Khoản 1 Điều 156. Ta có thể đưa ra khái niệm bất khả kháng như sau:
“ Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện xảy ra ngoài ý chí của con người khiến chúng ta không thể lường trước và khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết, khả năng cho phép”
Từ khái niệm sự kiện bất khả kháng ta có thể xác định một sự kiện được xem là sự kiện bất khả kháng khi đáp ứng các điều kiện sau:
– Thứ nhất, đó là những sự kiện xảy ra một cách khách quan hay gọi là sự kiện khách quan, tức sự kiện đó nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng. Ví dụ: sự kiện bão, lũ, động đất, sóng thần…
– Thứ hai, hậu quả của sự kiện không thể lường trước được tại thời điểm giao kết hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến trước thời điểm xảy ra hành vi vi phạm
– Thứ ba, hậu quả của sự kiện đó không thể khắc phục được mặc dù áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Như vậy, chỉ khi đáp ứng cả ba điều kiện nêu trên thì một sự kiện mới có thể được xem là bất khả kháng và là căn cứ để miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm.
3. Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng
– Các hiện tượng thiên nhiên như mưa, lũ, hỏa hoạn, bão, sóng thần, núi lửa phun trào…. Việc coi những hiện tượng thiên tai là sự kiện bất khả kháng được áp dụng thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật
– Các hiện tượng xã hội như: chiến tranh, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của Chính phủ
– Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận những sự kiện như: thiếu nhiên liệu, mất điện, lỗi mạng…là sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm khi vi phạm
Pháp luật hiện nay đưa ra khái niệm sự kiện bất khả kháng bằng cách định nghĩa chính vì vậy nó mang tính khái quát nhưng thiếu tính cụ thể dễ tranh chấp. Trên thực tiễn áp dụng các bên thường xuyên tranh chấp liên quan đến việc xác định trường hợp được xem là bất khả kháng. Chính vì điều này nên khi soạn thảo hợp đồng các bên nên có điều khoản về sự kiện bất khả kháng và nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm do sự kiện bất khả kháng.
Trong thực tiễn soạn thảo hợp đồng các chủ thể có thể lựa chọn một trong ba phương pháp xây dựng điều khoản bất khả kháng như sau:
– Phương pháp định nghĩa : Khi sử dụng phương pháp này các bên phải đưa ra một khái niệm về sự kiện bất khả kháng. Ưu điểm của phương pháp này là mang tính khái quát, tránh bỏ sót những trường hợp được xem là bất khả kháng. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của phương pháp này là mang tính trừu tượng, khi áp dụng sẽ phát sinh tranh chấp.
– Phương pháp liệt kê : Khi sử dụng phương pháp này các bên phải tiến hành liệt kê các trường hợp được xem là sự kiện bất khả kháng. Việc giúp xác định các trường hợp bất khả kháng cụ thể, rõ ràng tuy nhiên lại dẫn đến việc liệt kê thiếu các trường hợp được xác định là bất khả kháng
– Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này là sự kết hợp của hai phương pháp trên. Như vậy đây là biện pháp khá tối ưu khi xây dựng điều khoản bất khả kháng
4. Vụ việc tranh chấp
– Các bên:
+ Nguyên đơn: Người mua Việt Nam
+ Bị đơn: Người bán Ấn Độ
– Các vấn để được để cập:
+ Việc không giao hàng của Bị đơn và vấn đề bất khả kháng
+ Các khoản thiệt hại do Nguyên đơn yêu cầu
– Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn ký Hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 mua của Bị đơn 20.000 MT 4% Xi măng Kumgang với giá 55USD/MT CNF.FO cảng Nha Trang, giao hàng vào tháng 12 năm 1995, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, trả tiền ngay, L/C phải được mở trước ngày 30 tháng 9 năm 1995.
Hợp đồng quy định “Nếu hất kỳ bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng vì các trường hợp bất khả kháng như bão, động đất, lủ lụt, hoả hoạn, núi lửa phun, chiến tranh, đình công, bạo động của quần chúng, lệnh cấm của chính phủ, nhà máy sản xuất bị đóng cửa thì được miễn trách” (Điều 14).
Theo Điều 15 Hợp đồng, “Nếu chậm giao hàng do những nguyên nhân khác với Điều 14 thì 10 ngày chậm đầu tiên không phải nộp phạt. Sau đó phạt 0,7% trị giá lô hàng cho mỗi tuần chậm trễ cho đến khi đạt tới tối đa là 3% trị giá lô hàng giao chậm”.
Trên thực tế, Nguyên đơn đã mở L/C vào ngày 25 tháng 9 năm 1995 cho BỊ đơn hưỏng lợi.
Ngày 29 tháng 9 năm 1995 Nguyên đơn đã ký hợp đồng bán lại lô xi măng cho người mua nội địa.
Cuôì tháng 11 và cả tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhiều lần giục Bị đơn giao hàng, Bị đơn vài lần điện cam kết sẽ giao hàng nhưng rồi vẫn chưa giao.
Ngày 20 tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại thủ đô Ân Độ cấp ngày 25 tháng 11 năm 1995 cho Bị đơn theo Hợp đồng mua bán số 02/95 được ký kết giữa Bị đơn và người cung cấp. Hợp đồng số 02/95 này được ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 với số lượng 60.000 MT xi măng Kumgang.
Nguyên đơn không thừa nhận Bị đơn gặp bất khả kháng, tiếp tục yêu cầu Bị đơn giao hàng, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1996 Bị đơn vẫn không giao hàng.
Ngày 20 tháng 6 năm 1996 Bị đơn gửi cho Nguyên đơn hai bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại nước sở tại cấp ngày 21 tháng 1 năm 1996 cho Bị đơn và một bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng của uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tê’ của nước người cung cấp đề ngày 5 tháng 5 năm 1996. cả ba giấy chứng nhận này do người cung cấp gửi cho Bị đơn, Bị đơn photo gửi cho Nguyên đơn. Trong các bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng đó đều ghi: ở nước người cung cấp bị mưa lớn và lũ lụt, đưòng sá bị sụt lún nặng, không chỗ nguyên liệu vào nhà máy được, nhà máy bị hư hỏng nặng phải ngừng sản xuất. Hiện tượng này được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ thể.
Nguyên đơn không chấp nhận lý do mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng đối với Bị đơn và đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do không giao hàng. Sau nhiều lần đòi mà không được bồi thường, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi bồi thưòng 199.100USD, gồm các khoản:
– 70.000 USD tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa.
– 56.700 USD lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mỏ L/C từ ngày 20 tháng 9 năm 1995 đến ngày 20 tháng 6 năm 1996 (300.000 USD X 2,1%/tháng X 9 tháng).
– Phạt do chậm giao hàng theo Điều 15 Hợp đồng là 1.080.000 USD X 3% = 32.400 USD.
– Lãi không thu được 2 USD/1MT là 2 USD X 20.000 MT = 40.000 USD.
Bị đơn biện luận rằng Bị đơn ký hợp đồng mua xi măng của nhà cung cấp thuộc nưốc thứ ba nhưng vì nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy ngừng sản xuất) không giao được hàng cho Bị đơn nên Bị đơn không giao được hàng cho Nguyên đơn. Do đó Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng và được miễn trách. Giấy chứng nhận bất khả kháng do Đại sứ quán và Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung cấp được coi là bằng chứng về bất khả kháng của Bị đơn.
Tại phiên họp xét xử Bị đơn không xuất trình được bằng chứng về thời gian, địa điểm xảy ra lũ lụt ỏ nước người cung cấp, trong khi đó Nguyên đơn xuất trình được bằng chứng chứng minh địa điểm xảy ra lũ lụt, thời gian xảy ra lũ lụt là tháng 8 năm 1995. Sau khi lũ lụt xảy ra ỏ nước người cung cấp, Nguyên đơn đã điện hỏi Bị đơn là có xi măng không, nếu có thì mối ký hợp đồng, nếu không thì không ký. Bị đơn thừa nhân là đã điện hỏi người cung cấp về xi măng, người cung cấp điện trả lời là mặc dù đang gặp nhiều khó khăn do lũ lụt nhưng sẽ có xi măng giao và do đó Bị đơn đã ký Hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 với Nguyên đơn.
5. Phán quyết của trọng tài:
5.1. Việc Bị đơn không giao hàng và vấn đề bất khả kháng do Bị đơn nêu ra:
Căn cứ vào bằng chứng của vụ kiện, vào ý kiến trình bày của hai bên tại phiên họp xét xử, Uỷ ban trọng tài phân tích như sau:
Thứ nhất, Bị đơn không giao hàng là vi phạm hợp đồng do hai bên đã ký kết.
Thứ hai, lý do mà Bị đơn nêu ra không được công nhận là bất khả kháng bởi vì:
Lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp vào tháng 8 năm 1995 là bất khả kháng đối với người cung cấp hàng cho BỊ đơn theo Hợp đồng 02/95, vì Hợp đồng này ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 mà lũ lụt xảy ra vào tháng 8 năm 1995 làm cho người cung cấp không giao được hàng cho BỊ đơn. Bị đơn không trực tiếp gặp bất khả kháng vì lũ lụt không xảy ra ỏ nước của Bị đơn.
Bị đơn (Công ty Ấn Độ) đã biết lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp (nước thứ ba) nhưng không tính toán kỹ, tin vào sự thông báo không có bảo đảm của người cung cấp, vẫn ký hợp đồng bán lại lô hàng cho Nguyên đơn (Công ty Việt Nam) vào ngày 20 tháng 9 năm 1995, thì phải có nghĩa vụ giao hàng theo đúng hợp đồng. Không giao được hàng cho Nguyên đơn, Bị đơn phải tự chịu trách nhiệm. Bị đơn biết lũ lụt xảy ra và hậu quả của nó trước khi ký hợp đồng thì rõ ràng lũ lụt này không phải là bất khả kháng, căn cứ miễn trách nhiệm cho Bị đơn về việc không giao hàng, bỏi vì bất khả kháng phải là hiện tượng không lường trước được (không dự kiến được) vào lúc ký hợp đồng và không thể khắc phục được khi nó xảy ra.
Lập luận của Bị đơn về việc “nhà máy sản xuất bị đóng cửa” là một trường hợp bất khả kháng là không có căn cứ, không hợp lý, bỏi lẽ:
Nhà máy sản xuất bị đóng cửa là hậu quả của lũ lụt xảy ra ồ nước ngưồi cung cấp, mà lũ lụt đó không được công nhận là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho Bị đơn như đã phân tích.
Bị đơn đã biết nhà máy sản xuất bị đóng cửa trước khi ký hợp đồng bán hàng cho Nguyên đơn, cho nên việc nhà máy bị đóng cửa trong trường hợp này không được thừa nhận là bất khả kháng đối với Bị đơn.
Thứ ba, ý kiến của Bị đơn về việc Bị đơn chưa giao hàng chứ không phải là không giao hàng là không có căn cứ hợp lý, bởi vì thời hạn giao hàng là tháng 12 năm 1995, mà đến 15 tháng 6 năm 1996 hàng vẫn chưa được giao thì hoàn toàn có thể kết luận là Bị đơn không giao hàng. Không thể bắt Nguyên đơn (người mua) chờ đợi việc giao hàng quá lấu sau khi kết thúc thời hạn giao hàng. Nếu làm như thế thì Nguyên đơn không đạt được mục đích của hợp đồng và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bình thường của Nguyên đơn. Mặt khác, sau khi kết thúc thời hạn giao hàng mà hàng vẫn chưa được giao thì người mua chỉ chờ đợi hàng trong một thời gian hợp lý chứ không thể chờ đợi vô thời hạn được, trừ khi Hợp đồng có quy định khác.
Từ sự phân tích đó, uỷ ban trọng tài kết luận Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn về việc không giao hàng.
5.2. Về 199.100 USD là số tiền thiệt hại mà Nguyên đơn đồi:
Về tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa 70.000 USD:
Vì Hợp đồng không quy định phạt hợp đồng nên Bị đơn phải bồi thường thiệt hại thực tế phát sinh từ việc không giao hàng. Vì Bị đơn không giao hàng nên Nguyên đơn không có hàng giao cho người mua nội địa, do vậy tiền phạt phải trả cho người mua nội địa được coi là khoản thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn, Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ bằng chứng về khoản thiệt hại này, do đó uỷ ban trọng tài thừa nhận khoản tiền 70.000 USD.
Về 56.700 USD là tiền lãi ngân hàng trên số tiền ký quỹ mở L/C:
Tiền lãi ngân hàng trên số tiền ký quỹ mỏ L/C cũng được coi là một khoản thiệt hại của Nguyên đơn, vì nếu không ký quỹ số tiền này để mỏ L/C thì Nguyên đơn có thể gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nguyên đơn ký quỹ mỏ L/C để nhận được hàng từ Bị đơn, nhưng Bị đơn không giao hàng, do đó Bị đơn phải bồi thường tiền lãi 56.700 USD đó cho Nguyên đơn.
Về 32.400 USD tiền phạt do chậm giao hàng:
Nguyên đơn không có quyền đòi BỊ đơn khoản tiền phạt bởi vì Điều 15 của Hợp đồng quy định tiền do chậm giao hàng, còn thực tế Bị đơn không giao hàng, chứ không phải là chậm’ giao hàng. Mặt khác, Nguyên đơn đã đòi bồi thường thiệt hại do Bị đơn không giao hàng thì không được đòi tiền phạt do chậm giao hàng.
Lãi không thu được:
Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường tiền lãi 40.000 USD nhưng không cung cấp đầy đủ bằng chứng để chứng minh mức lãi nên uỷ ban trọng tài không thừa nhận. Mặt khác, tiền lãi trên số tiền ký quỹ để mở L/C mà Nguyên đơn đã đòi được coi là phần lợi mất hưởng do không giao hàng.
Kết luận, Ưỷ ban trọng tài chỉ chấp nhận cho Nguyên đơn 126.000 USD, bao gồm tiền phạt mà Nguyên đơn đã phải trả cho ngưồi mua nội địa và tiền lãi trên số tiền ký quỹ mở L/C, đồng thời bác bỏ các yêu cầu khác của Nguyên đơn.
Bình luận và lưu ý:
Thứ nhất, không nên tin vào thông báo không có bảo đảm của khách hàng để ký kết hợp đồng, cần phải nhận định, phân tích, tính toán kỹ các hiện tượng xảy ra trước khi ký hợp đồng.
Thứ hai, các hiện tượng tự nhiên như bão, động đất, lũ lụt, V.V.. là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người này nhưng chưa chắc là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người khác. Muôn được thừa nhận là bất khả kháng để miễn trách thì phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là hiện tượng mà các bên không lường trước được vào lúc ký hợp đồng và bên gặp phải đã không thể khắc phục được. Đồng thời phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, cung cấp giấy chứng nhận bất khả kháng lần đầu phải là bản chính, không được cung cấp bản photo. Nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng phải bao gồm các mục như tên hiện tượng bất khả kháng, thời gian phát sinh và tồn tại, địa điểm phát sinh, hậu quả và tác động ảnh hưỏng của hiện tượng này đôì với việc thực hiện hợp đồng. Dù cơ quan cấp giấy chứng nhận bất khả kháng là cơ quan có thẩm quyền nhưng nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng không ghi thời gian, địa điểm xảy ra thì hiện tượng ghi trong giấy không được thừa nhận là bất khả kháng để được miễn trách.
Thứ tư, khi đi kiện phải nghiên cứu kỹ hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng, chỉ đòi tiền phạt, tiền thiệt hại áp dụng cho từng trưòng hợp vi phạm cụ thể, không được đòi Bị đơn chịu trách nhiệm đối với những căn cứ mà Bị đơn không vi phạm.