Tuy vậy, đội ngũ công chức nhànước trong quá trình thực thi công vụ để phục vụ lợi ích nhànước và xã hội không phải khi nào cũng làm đúng, chính xác và có lợi cho nhà nước, cho các tổ chức khác và cho nhân dân. Một số công chức nhà nước có thể có những hành vi trái pháp luật khi thi hành công vụ gây thiệt hại lớn về vật chất và tinh thần cho các tổ chức và cá nhân khác.
Có thể nói, hiện tượng làm trái pháp luật của công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho các tổ chức và cá nhân thì ở đâu cũng có và thời nào cũng có, vấn đề là nhiều hay ít và nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng mà thôi. Còn ở Việt Namthì hiện tượng này còn tương đối phổ biến và những thiệt hại mà các tổ chức, cá nhân phải gánh chịu là rất lớn. Sở dĩ hiện tượng này còn xảy ra nhiều ở Việt Nam là vì rất nhiều những nguyên nhân khác nhau như do trình độ của công chức chưa đủ năng lực để thực hiện đúng các hoạt động công vụ của mình, do các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ chưa tốt và cũng không ít nguyên nhân từ sự tác trách của đội ngũ công chức không tìm hiểu sự việc một cách thấu đáo nên đã đưa ra những quyết định sai trái. Trong một số trường hợp không loại trừ có những công chức cố ý thực hiện hành vi sai trái vì mục đích vụ lợi, trả thù khi thi hành công vụ gây nhiều thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những bức xúc rất lớn cho các tổ chức và cá nhân, nhất là các doanh nghiệp.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi:1900.0191
Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài – Ảnh minh họa
Các hoạt động nhà nước thường liên quan đến ba lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp, vì thế sự sai sót của công chức nhà nước cũng xảy ra trong cả ba lĩnh vực nói trên.
Trong hoạt động lập pháp, cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền có thể có những sai phạm trong việc xác định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định, chính sách nhà nước liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước cũng như phạm vi địa phương gây lãng phí tiền của, thời gian, công sức của nhà nước, gây thiệt hại rất lớn tới lợi ích của các tổ chức, các tầng lớp dân cư trong xã hội, thậm chí có những quy định, chính sách pháp luật có thể kìm hãm, làm chậm lại sự phát triển của cả xã hội trong những thời gian khá dài.
Trong hoạt động hành pháp, một số cơ quan, công chức nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, tiến hành các hoạt động quản lý hành chính nhà nước có thể có những sai phạm gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho các tổ chức và cá nhân.
Trong hoạt động tư pháp, một số công chức do việc làm sai trái của mình khi tiến hành tố tụng có thể dẫn đến việc bắt, giam, xét xử oan sai gây thiệt hại về danh dự, sức khoẻ, tự do, số phận, thậm chí là tính mạng của người dân.
Đương nhiên tất cả những cơ quan, công chức nhà nước trong quá trình thực hiện công vụ mà có những hành vi sai trái thì đều phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và nhân dân (họ có thể bị giải tán, bị kỷ luật, không được tiếp tục đảm nhiệm chức vụ hay thực hiện công vụ đó nữa, thậm chí có thể bị truy tố.v.v). Về mặt lý luận và dưới phương diện đạo đức thì ai cũng thấy rằng nếu tổ chức hay cá nhân nào có hành vi gây thiệt hại cho nhà nước thì có thể bị trừng phạt và phải bồi thường cho nhà nước, vậy thì ngược lại, nhà nước (cơ quan, công chức nhà nước thi hành công vụ) gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân không phải là nhà nước, thì cũng phải xin lỗi và bồi thường, khắc phục và khôi phục cho họ, có như vậy mới công bằng, mới hợp với lẽ phải, với công lý. Tuy nhiên, vấn đề bồi thường của nhà nước cho các tổ chức và cá nhân bị thiệt hại do việc làm sai trái của cơ quan, công chức nhà nước không phải khi nào cũng được đặt ra và cũng thực hiện được trên thực tế, nhất là bồi thường về mặt vật chất. Việc nhà nước có bồi thường hay không bồi thường đối với những thiệt hại do hành vi sai trái của công chức gây ra trong khi thi hành công vụ là phụ thuộc vào ý chí và điều kiện của mỗi nhà nước. Có thể nói bồi thường nhànước đối với những thiệt hại do công chức trong quá trình thực hiện công vụ gây ra cho các tổ chức và cá nhân là vấn đề nhạy cảm nên không phải nhà nước nào cũng đặt ra vấn đề bồi thường và khi nào cũng thực hiện việc bồi thường.
Vấn đề bồi thường nhà nước được đặt ra đối với những tổ chức và cá nhân bị thiệt hại do công chức nhà nước có hành vi trái pháp luật trong khi thi hành công vụ gây ra là một bước tiến mới của dân chủ. Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước và công dân đều có quyền và có nghĩa vụ với nhau: nhà nước bảo vệ quyền, tự do, tính mạng, tài sản, danh dự và những lợi ích hợp pháp cho công dân, còn công dân có nghĩa vụ bảo vệ nhà nước, đóng thuế và lao động công ích. Thừa nhận nguyên tắc về sự bình đẳng giữa nhà nước với công dân đã làm cho công dân đỡ thua thiệt hơn so với nhà nước. Nhà nước không thể hành xử trong mối quan hệ với công dân như kiểu kẻ cả, trịch thượng và theo kiểu ban phát, bố thí, làm phúc mà nhà nước và công dân ngang quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm đối với nhau, nếu làm sai thì đều phải chịu trách nhiệm cả vật chất lẫn tinh thần. Tuy vậy, có thể thấy bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại do công chức trong quá trình thực hiện công vụ gây ra cho các tổ chức và cá nhân là vấn đề nhạy cảm nên không phải nhà nước nào cũng đặt ra vấn đề bồi thường và khi nào việc bồi thường cũng được thực hiện trên thực tế.
Dù đã chấp nhận việc bồi thường, nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều không đặt vấn đề bồi thường khi công chức nhà nước hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật có sai trái gây thiệt hại cho cả xã hội. Điều này được lý giải bởi rất nhiều lý do: Thứ nhất, là những sai trái này gây thiệt hại cho cả cộng đồng chứ không chỉ cho những cá nhân hay tổ chức cụ thể; thứ hai, là những thiệt hại do sai lầm về hoạch định chính sách, về xây dựng pháp luật gây ra thường quá lớn, nhiều khi không thể xác định được, nên việc bồi thường trên thực tế là không có tính khả thi. Trong trường hợp này trách nhiệm của các cơ quan, công chức làm sai chỉ dừng lại là họ sẽ bị thay thế bằng những công chức mới, bị cách chức, bị giải tán Tuy vậy, việc loại bỏ lĩnh vực lập pháp khỏi trách nhiệm bồi thường thì còn có thể chấp nhận được, nhưng nếu loại bỏ toàn bộ các hoạt động xây dựng pháp luật khỏi trách nhiệm bồi thường thì sẽ làm hạn chế rất nhiều tác dụng của pháp luật về bồi thường nhà nước. Bởi trên thực tế một số cơ quan chính quyền địa phương, những người có chức vụ, quyền hạn trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thi hành các văn bản luật đã có những hành vi sai trái ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật gây thiệt hại rất lớn đến tài sản của tổ chức và nhân dân. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã ban hành văn bản quy định khung giá đất để bồi thường cho người dân khi nhà nước tổ chức thu hồi đất thấp hơn so với quy định của nhà nước, gây thiệt hại cho người dân nhưng không phải bồi thường. Do vậy, theo chúng tôi có lẽ chỉ trừ hoạt động lập hiến và lập pháp thì không quy định trách nhiệm bồi thường, còn đối với việc ban hành các văn bản dưới luật thì nên nghiên cứu để quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là nếu đặt vấn đề chỉ khi nào công chức vi phạm pháp luật khi thi hành công vụ và gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho tổ chức, cá nhân khác thì nhà nước mới tiến hành bồi thường theo chúng tôi như vậy cũng sẽ hạn chế rất nhiều đến khả năng được bồi thường của nhân dân. Bởi những lý do sau: một là, những người không phải công chức nhưng được mời hoặc huy động để thực hiện công vụ nếu vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì nhà nước cũng không thực hiện việc bồi thường. Như vậy thì cũng không công bằng, bởi công chức hay không phải công chức nhưng khi thi hành công vụ thì đều thay mặt nhà nước thực thi quyền lực nhà nước vậy thì nhà nước đều phải có trách nhiệm với việc làm sai trái của họ, đều phải thực hiện việc bồi thường cho tổ chức, cá nhân bị gây thiệt hại; hai là, nếu một người trong quá trình thi hành công vụ nhưng vì một lý do nào đó đã không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển được hành vi của mình (chẳng hạn, do mắc một chứng bệnh nào đó) nên đã thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể thứ ba mà nhà nước không tiến hành bồi thường thì không công bằng (những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu hoàn toàn không có lỗi của họ); ba là, trong thực tế việc xác định lỗi của chủ thể thi hành công vụ đối với chủ thể bị thiệt hại là rất khó khăn. Do vậy, chúng tôi kiến nghị là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước chỉ nên xác định gồm: 1) có hành vi trái pháp luật của chủ thể trong khi thi hành công vụ; 2) có thiệt hại xảy ra đối với tổ chức, cá nhân; 3) có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật đó với sự thiệt hại của tổ chức, cá nhân (bỏ đi điều kiện chủ thể gây thiệt hại là công chức và có lỗi).
Với những kiến nghị trên chúng tôi muốn mở rộng diện những trường hợp được hưởng bồi thường nhà nước, bởi việc bồi thường cho các tổ chức cá nhân trong những trường hợp như nêu trên là hoàn toàn chính đáng. Việc mở rộng diện những trường hợp được bồi thường đương nhiên sẽ gây tổn hại về uy tín cũng như về vật chất cho nhà nước, song thiết nghĩ những phí tổn đó đối với nhà nước là không đáng kể, còn đối với các doanh nghiệp hay cá nhân là vô cùng to lớn. Bởi nó có thể ảnh hưởng tới sự tồn tại của một doanh nghiệp, số phận của một gia đình hay một con người, nhất là uy tín, danh dự và thậm chí cả hạnh phúc gia đình của họ. Hơn nữa việc bồi thường cũng chỉ đặt ra đối với một số trường hợp chứ không phải với mọi trường hợp có sự thiệt hại xảy ra (đối với những thiệt hại do lỗi của chủ thể bị thiệt hại nhà nước không bồi thường) và mức bồi thường cũng chỉ là tương đối, mang tính chất bù đắp một phần những mất mát mà người dân phải gánh chịu bởi có những thiệt hại, mất mát khó có thể quy định thành tiền được như uy tín, danh dự, sự tự do, tính mạng con người
Từ những phân tích trên chúng tôi đề nghị không nên quy định chỉ công chức trong khi thi hành công vụ, có hành vi trái pháp luật, có lỗi gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì mới thực hiện bồi thường nhà nước mà nên quy định rộng ra là tổ chức, cá nhân khi thi hành công vụ mà có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho chủ thể thứ ba mà không phải là nhà nước thì nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Như vậy, để được bồi thường không cần xác định xem chủ thể gây hại có phải là công chức hay không chỉ cần biết là họ gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và cũng không cần phải xác định lỗi mà chỉ cần hành vi gây thiệt hại đó trái pháp luật là đủ. Việc quy định như vậy sẽ nâng cao hơn được ý thức, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là công chức khi thi hành công vụ, đồng thời cũng góp phần bảo vệ được những lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và cá nhân trong xã hội theo tinh thần của nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Khi đã đặt vấn đề bồi thường thiệt hại cho chủ thể thứ ba không phải là nhà nước do các hành vi trái pháp luật gây ra khi thi hành công vụ thì cũng phải đặt vấn đề trách nhiệm hoàn trả cho nhà nước của những người có hành vi trái pháp luật khi thi hành công vụ gây thiệt hại. Trách nhiệm hoàn trả của chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho các chủ thể khác theo chúng tôi chỉ nên đặt ra khi chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật có lỗi. Như vậy, dấu hiệu lỗi là yếu tố bắt buộc khi yêu cầu chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật khi thi hành công vụ gây thiệt hại phải bồi hoàn. Đối với cơ quan, công chức nhà nước thì chỉ cần có lỗi (dù là lỗi cố ý hay vô ý) thì đều phải hoàn trả, còn đối với chủ thể không phải cơ quan hay công chức nhà nước thì chỉ phải hoàn trả khi có lỗi cố ý. Việc quy định trách nhiệm hoàn trả của người làm sai (vi phạm pháp luật) khi thi hành công vụ gây thiệt hại là cần thiết nếu không họ sẽ không có trách nhiệm với lợi ích của nhà nước cũng như của người dân khi thi hành công vụ, họ sẽ sẵn sàng làm sai vì đã cónhà nước chịu. Tuy nhiên, việc quy định trách nhiệm hoàn trả của chủ thể vi phạm pháp luật khi thi hành công vụ gây thiệt hại nếu không cẩn thận sẽ làm cho một số người không dám thực thi công vụ, bởi sợ sai, sợ phải hoàn trả.
Vấn đề quan trọng đối với luật bồi thường nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xác định phạm vi điều chỉnh mà là ở việc tổ chức thực hiện việc bồi thường trên thực tế theo quy định của pháp luật. Như trên đã nhận xét ở Việt nam hiện tượng các tổ chức, cá nhân mà nhất là công chức nhànước có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ gây thiệt hại cho các tổ chức và cá nhân xảy ra tương đối phổ biến và diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực hoạt động nhà nước. Tuy nhiên, việc bồi thường trước đây đã không được pháp luật quy định một cách đầy đủ nên việc có bồi thường hay không là tuỳ thuộc các cơ quan hay cá nhân công chức trực tiếp gây thiệt hại. Sau này vấn đề bồi thường nhà nước đã được quy định rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau như Nghị định 47 CP của Chính phủ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người tiến hành tố tụng gây ra, Bộ luật Dân sự, Nghị quyết 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra Những quy định đó đã từng bước ghi nhận trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với các chủ thể bị thiệt hại do công chức thi hành công vụ gây ra, đặc biệt là những trường hợp bị truy tố, bị bắt, bị xét xử oan sai. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức thi hành các quy định pháp luật về bồi thường nhà nước là rất khó khăn. Tình trạng này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất, sự thừa nhận của cơ quan, công chức nhà nước về những việc làm sai, làm oan đối với các chủ thể khác là rất khó khăn. Bởi cơ quan, công chức nhà nước là những chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, họ mạnh hơn các tổ chức phi nhà nước và các cá nhân không chỉ ở quyền lực chính trị, mà còn ở cả vật chất và tinh thần nên họ thường tìm cách che giấu, hợp pháp hoá những việc làm sai trái của mình. Thậm chí họ còn có thể liên kết với nhau. bảo vệ nhau để giữ uy tín cho cán bộ, cơ quannhà nước; thứ hai, một số trường hợp tổ chức, cá nhân bị thiệt hại được các cơ quan, công chứcnhà nước thừa nhận là có sai trái khi thi hành công vụ thì họ thường tìm cách đổ lỗi cho nhau và không ai chịu nhận là phải có trách nhiệm bồi thường; thứ ba, nhiều vụ việc đã được các cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là có sai sót gây thiệt hại nhưng những chủ thể phải bồi thường cũng tìm cách dây dưa, kéo dài không muốn thi hành quyết định bồi thường trên thực tế. Do vậy, theo chúng tôi cần thiết lập cơ chế phù hợp, hiệu quả để chứng minh sự sai phạm của cơ quan, công chức nhà nước, xác định sự thiệt hại, mức bồi thường và việc thực thi các quyết định bồi thường đã có hiệu lực thi hành là vấn đề quan trọng và khó khăn nhất.
Trong thực tế sự sai phạm của cơ quan, công chức nhà nước chủ yếu gây thiệt hại cho người nghèo, những người yếu thế trong xã hội. Những đối tượng này do không có các điều kiện nhất định, nhất là điều kiện vật chất so với những người khác nên đã không có được sự trợ giúp cần thiết trong các hoạt động của mình. Bởi vậy, họ dễ trở thành đối tượng bị gây thiệt hại do những việc làm sai trái của đội ngũ cán bộ, công chức trong khi thực thi công vụ. Cũng vì vậy, việc bồi thường của cơ quan, công chức nhà nước cho các chủ thể khác thường mang tính trịch thượng, kẻ cả, thậm chí là mang tính chất làm ơn, bố thí chứ ít khi thể hiện sự ăn năn, hối lỗi của những người đã lỗi lầm. Thực tiễn thời gian qua trong việc thực hiện bồi thường oan sai quan trọng nhất là xác định mức bồi thường. Các cơ quan, công chức gây thiệt hại thường chỉ muốn bồi thường càng ít càng tốt, còn các chủ thể được bồi thường sẽ rơi vào hai khả năng: hoặc là chỉ cần phíanhà nước thừa nhận sai lầm, đã làm oan, sai đối với họ còn không cần sự bồi thường về vật chất hoặc bồi thường bao nhiêu cũng được không quan trọng lắm, đối với họ được giải oan, được phục hồi danh dự là quan trọng nhất hoặc là sẽ có những chủ thể được bồi thường sẽ đòi hỏi quá đáng, họ cho là tiền của nhà nước ấy mà đòi được bao nhiêu thì cố gắng đòi Do vậy, trong luật bồi thường cần có khung pháp luật quy định các nguyên tắc xác định thiệt hại, mức độ bồi thường sao cho dễ xác định, dễ tính toán và không để thiệt quá cho người dân cũng như cho nhà nước, nghĩa là các bên đều cảm thấy như vậy là có thể chấp nhận được và có thể thực hiện được trên thực tế.
Để tránh sự phức tạp và cồng kềnh cho bộ máy nhà nước theo chúng tôi không nên thiết kế thêm một cơ quan thực hiện việc bồi thường nhà nước. Việc bồi thường nhà nước chỉ nên xem là hệ quả của việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về các quyết định, hành vi sai trái của các cơ quan nhà nước, những người có chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho chủ thể thứ ba không phải là nhà nước. Sự thừa nhận sự sai trái này đã được pháp luật hiện hành quy định trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của nhà nước kể cả lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Chẳng hạn, sau khi toà hành chính ban hành quyết định thừa nhận hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của công chức nhà nước là trái pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền thừa nhận việc bắt, giam, xét xử, thi hành án đối với một người nào đó là trái pháp luật, thì khi đó vấn đề bồi thường thiệt hại mới đặt ra nếu có sự thiệt hại thực tế xảy ra. Khi đã có quyết định thừa nhận là người thi hành công vụ đã có hành vi trái pháp luật và gây thiệt hại cho chủ thể thứ ba không phải là nhà nước thì tổ chức, cá nhân bị thiệt hại nếu có yêu cầu về việc bồi thường bao gồm cả sự xin lỗi, cải chính công khai và đền bù về mặt vật chất thì phải có đơn đề nghị và làm việc trực tiếp với chủ thể phải bồi thường. Các bên (cơ quan nhà nước phải bồi thường và tổ chức, cá nhân được bồi thường) sẽ tiến hành thoả thuận về vấn đề bồi thường trong khuôn khổ pháp luật (tương tự như trong lĩnh vực pháp luật dân sự) theo thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn luật định mà việc bồi thường không được giải quyết hoặc một bên nào đó không đồng ý với kết quả giải quyết thì chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án để yêu cầu giải quyết bồi thường. Quy định như vậy, theo chúng tôi là vừa có tình vừa có lý bởi việc để cho các bên tự thoả thuận với nhau về vấn đề bồi thường trong khuôn khổ pháp luật như vậy sẽ hợp lý hơn cho cả hai bên, dễ có sự thông cảm với nhau hơn. Chỉ trong trường hợp hết thời hạn luật định mà các bên không thể thoả thuận được việc bồi thường thì sẽ giải quyết bằng con đường tư pháp trong toà án dân sự. Điều này cũng góp phần củng cố thêm vị trí, vai trò của toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khi này các cơ quan quản lý nhà nước về việc bồi thường nhà nước chỉ cần theo dõi, quản lý, đốc thúc việc thực hiện bồi thường và trong những trường hợp cần thiết thì thực hiện sự trợ giúp pháp lý đối với các chủ thể được bồi thường, nhất là đối với những gia đình chính sách, những người nghèo, những người nông dân ở các vùng sâu, vùng xa. Do vậy, trách nhiệm quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước sẽ phù hợp khi giao cho các sở tư pháp, Bộ tư pháp thực hiện.
Tóm lại, vấn đề xây dựng luật bồi thường nhà nước ở Việt Nam là cần thiết, góp phần củng cố, hoàn thiện thêm cơ sở pháp lý cho hoạt động bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại donhà nước gây ra cho các tổ chức và cá nhân trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên Luật này phải được xây dưng phù hợp với những quy định pháp luật hiện hành về vấn đề bồi thường, nhất là bồi thường trong lĩnh vực dân sự đã được quy định. Việc ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật bồi thường nhà nước sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, công chức nhà nước đối với những hành vi của mình để cố gắng không làm sai, làm oan đối với các tổ chức và cá nhân trong quá trình thực thi công vụ. đồng thời còn giúp giải toả những nỗi oan, sai, sự bức xúc của người dân, trả lại danh dự cho họ và bồi thường phần nào những thiệt hại về vật chất mà họ đã phải gánh chịu do những việc làm sai trái của cơ quan, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ.
SOURCE; TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 129 – THÁNG 8/2008 – TS. NGUYỄN MINH ĐOAN – Đại học Luật Hà Nội
Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/
(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)