Cho đến nay, số vụ kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam xảy ra ít, thông thường chỉ xảy ra trong một số lĩnh vực như tai nạn giao thông, xây dựng công trình dân dụng… chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong các tranh chấp dân sự.

Điều này trái ngược với tỷ lệ thực tế tại các nước phát triển. Lấy ví dụ tại Nhật Bản, số vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chiếm hơn 60% tổng số tranh chấp dân sự. Hơn 30% còn lại chia cho các tranh chấp hợp đồng, hưởng lợi không có căn cứ chính đáng và thực hiện công việc không có ủy quyền.

Vài kinh nghiệm từ Nhật Bản

Một trong những bị đơn thường xuyên trong các vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại các nước phát triển là nhà nước hoặc cơ quan nhà nước như chính quyền địa phương. Họ trở thành bị đơn vì đã được xã hội giao cho các quyền (nghĩa vụ) thực hiện công việc nhất định như cấp phép, bảo đảm chất lượng cuộc sống, xây dựng công trình công cộng… nhưng đã không hoàn thành những công việc này mà còn gây thiệt hại cho người khác.

Lấy ví dụ tại Nhật Bản, từ năm 1947 nước này đã ban hành Luật về bồi thường nhà nước (Kokka baisho ho) quy định về những trường hợp nhà nước phải bồi thường. Cụ thể điều 1.1 luật này quy định: “Khi thực thi công vụ, nếu một quan chức chính quyền có hành vi vi phạm, dù cố ý hoặc vô ý, mà gây thiệt hại cho người khác thì nhà nước hoặc cơ quan có liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Điều 2.1 luật này quy định: “Trong trường hợp có khiếm khuyết khi xây dựng hoặc quản lý đường sá, sông ngòi và các cơ sở công cộng khác mà gây thiệt hại cho người khác thì nhà nước hoặc cơ quan có liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

 

”Như vậy, luật này có hai nội dung lớn liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà nước/cơ quan nhà nước. Thứ nhất, nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi sai trái của nhân viên của mình. Thứ hai, nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với tài sản của mình.

Điều đáng lưu ý khác ở đây là điều 2.1 Luật về bồi thường nhà nước của Nhật Bản mặc nhiên thừa nhận nhà nước/cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm ngay cả khi họ không có lỗi khi tranh chấp liên quan đến khiếm khuyết của công trình công cộng. Tức là, nguyên đơn sẽ không phải chứng minh rằng người vi phạm cố ý hay buộc phải biết rằng hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác.

Sau khi được ban hành, Luật về bồi thường nhà nước được áp dụng trong nhiều vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Dường như không có vụ nào giống như “lô cốt” tại Việt Nam (người viết bài đã chứng kiến 6 năm cuối xây dựng một tuyến tàu điện ngầm tại một thành phố và nhận thấy đã không hề xảy ra hiện tượng ùn tắc giao thông, gây ra hố “tử thần”, gây ngập úng hay thậm chí bụi bặm cho đường phố khi thi công công trình này). Nhưng số vụ kiện về trách nhiệm nhà nước thì rất nhiều.

Nổi tiếng nhất có lẽ là vụ SMON năm 1977, viết tắt của bệnh lý “subacute myel-optico neuropathy”. Hơn 5.000 nguyên đơn khởi kiện bị đơn gồm các công ty Ciba-Geigi, Japan Ltd., Takeda Chemical Industries Ltd., Tanabe Seiyaku Co. Ltd. và Chính phủ Nhật Bản. Nguyên đơn khởi kiện các công ty này vì loại thuốc có tên gọi Clioquinol gây ra bệnh cho hệ thống thần kinh của họ, và khởi kiện Chính phủ Nhật Bản vì đã cấp phép lưu hành thuốc này.

Chín tòa khu vực gồm Tokyo, Kanazawa, Fukuoka, Hiroshima, Sapporo, Kyoto, Shizuoka, Maehashi và Osaka đều tuyên phần thắng thuộc về nguyên đơn. Bị đơn là các công ty bị tuyên phải bồi thường vi phạm ngoài hợp đồng theo điều 709 Bộ luật Dân sự, còn Chính phủ Nhật Bản bị tuyên vi phạm theo Luật về bồi thường nhà nước khi cấp phép lưu hành thuốc.

Một vụ khác là về bệnh Minamata (bệnh ngộ độc thủy ngân) bắt đầu từ năm 1959. Nhiều người tại vịnh Minamata thuộc tỉnh Kumamoto khi ăn cá hoặc sò đánh bắt tại khu vực này bị các chứng bệnh rối loạn thần kinh và sau đó tử vong. Sau quá trình điều tra lâu dài, kết luận nguyên nhân của bệnh là do việc thải thủy ngân của Công ty Chisso. Các nguyên đơn đã khởi kiện Công ty Chisso và chính quyền tỉnh Kumamoto. Chisso bị khởi kiện do vi phạm quy định cấm xả chất độc hại theo quy chế phối hợp ngư nghiệp tỉnh Kumamoto; còn chính quyền tỉnh Kumamoto là đồng bị đơn do không thực thi thẩm quyền (nhiệm vụ) ngăn ngừa sự lan rộng của chứng bệnh như được quy định tại Luật Bảo tồn chất lượng nước tại khu vực nước công cộng, và Luật Kiểm soát xả thải nhà máy.

Khi không thực thi thẩm quyền này, hành vi của chính quyền/quan chức bị coi là vi phạm điều 1.1 Luật về bồi thường nhà nước. Sau nhiều cấp xét xử, cuối cùng ngày 15-10-2004 Tòa án Tối cao Nhật Bản tuyên Chisso và chính quyền tỉnh Kumamoto phải chịu trách nhiệm và phải bồi thường cho các nạn nhân với mức bồi thường là 320 triệu yen Nhật.

Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Như có thể thấy, việc nhà nước Nhật Bản bồi thường cho dân chúng không làm cho nhà nước trở nên yếu đi. Ngược lại, người dân sẽ tin tưởng hơn vào tính chịu trách nhiệm của chính quyền, hiệu quả của quy định pháp luật và tính nghiêm minh của tòa án. Về phần mình, cơ quan chính quyền sau khi thực hiện bồi thường cũng có quyền truy trách nhiệm cá nhân của cá nhân sai phạm để truy thu khoản bồi thường và thực hiện kỷ luật.

Dường như, pháp luật chung về bồi thường thiệt hại của Việt Nam nêu tại điều 604 Bộ luật Dân sự và được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP cũng đủ để giải quyết liên quan đến bồi thường nhà nước cho các vụ như “lô cốt”… Tuy nhiên, sẽ là hoàn thiện hơn cho hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này nếu các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau.

Thứ nhất, quy định “phải có hành vi trái pháp luật” trong các yếu tố khởi kiện một vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nêu tại Nghị quyết 03 là không hợp lý. Quy định này bắt nguồn từ hệ thống Đức hay Anh, nơi yêu cầu hành vi vi phạm phải trái một quy định pháp luật nào đó và nó trái với quy định chung của điều 604 Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường cho bất kỳ hành vi nào xâm hại đến “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân…” (theo hệ thống Pháp). Ai cũng biết rằng hành vi vi phạm một quy định pháp luật là khác và hạn hẹp hơn một hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của một người. Vì vậy, quy định tại Nghị quyết 03 nói trên cần được sửa đổi cho phù hợp với điều 604 Bộ luật Dân sự.

Thứ hai, nhà làm luật cần xem xét bổ sung vào dự thảo Luật Bồi thường nhà nước của Việt Nam quy định về bồi thường nhà nước đối với các công trình công cộng. Quy định tại điều 2.1 Luật về bồi thường nhà nước của Nhật Bản nói trên có thể được coi là một nguồn tham khảo.

Cuối cùng, trong các vụ án bồi thường nhà nước, vì nguyên đơn thường là những người không có điều kiện (khả năng) để chứng minh rằng chủ thể vi phạm có lỗi hay không nên nhà làm luật cần xem xét quy định chủ thể vi phạm phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi như được quy định tương tự tại điều 623 và 624 Bộ luật Dân sự Việt Nam.

SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN – TS. NGUYỄN QUỐC VINH

Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn

(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)