Kính thưa Luật sư, tôi có một câu hỏi mong muốn Luật sư giải quyết giúp tôi liên quan tới tổn thất chung trong hàng hải, đó là: Trong tuyên bố tổn thất chung, các bước của chủ hàng khi chủ tàu tuyên bố tổn thất chung được thực hiện như thế nào ạ? Xin Luật sư hãy giúp tôi giải thích rõ về từng nội dung được không?

Xin cảm ơn Luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, bài viết dưới đây chúng tôi sẽ làm rõ về tổn thất chung và trả lời câu hỏi của bạn.

 

1. Theo pháp luật hàng hải Việt Nam hiện hành, tổn thất chung là gì?

– Cơ sở pháp lý: Điều 292 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015

Theo khoản 1 Điều 292 của Bộ luật quy định khái niệm “Tổn thất chung” như sau:

“Tổn thất chung là những hy sinh và chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tàu, hàng hóa, hành lý, giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa, hành khách thoát khỏi hiểm họa chung.”

Chỉ những mất mát, hư hỏng và chi phí là hậu quả trực tiếp của hành động gây ra tổn thất chung mới được tính vào tổn thất chung.

Như vậy tổn thất chung là những hy sinh và chi phí bất thường được thực hiện một cách có chủ ý, có ý thức và hợp lý vì an toàn chung nhằm cứu tàu, hàng hóa, hành lý, tiền cước vận chuyển hàng hóa, tiền công vận chuyển hành khách thoát khỏi hiểm họa chung.

 

2. Những đặc điểm chính của tổn thất chung

Theo khái niệm về tổn thất chung: “là những hy sinh và chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tàu, hàng hóa, hành lý, giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa, hành khách thoát khỏi hiểm họa chung.” thì tổn thất chung có những đặc điểm sau:

a. Tổn thất chung phải có hy sinh và chi phí bất thường

Hy sinh và chi phí bất thường là những hy sinh và chi phí trong điều kiện bình thường không xảy ra.

Ví dụ: tàu vận chuyển hàng từ cảng Singapore về cảng Hải Phòng. Trong điều kiện bình thường, các chi phí của chuyến đi bao gồm: cảng phí, đại lý phí, chi phí xếp dỡ hàng ở hai đầu bến, tiền mua nhiên liệu, dầu nhờn, vật tư, lương thực, thực phẩm, nước ngọt đủ dùng cho cả chuyến đi.

Trên hành trình xảy ra sự cố chẳng may tàu bị mắc cạn. Chủ tàu buộc phải thuê cứu hộ nhằm đưa tàu cùng hàng hóa trên tàu thoát khỏi cạn và phải trả chi phí cứu hộ. Như đã nêu ở trên, trong điều kiện bình thường đối với hành trình vận chuyển hàng hóa từ cảng Singapore về cảng Hải Phòng không có chi phí cứu hộ. Vì vậy, trong trường hợp này, chi phí cứu hộ là chi phí bất thường.

Các chí phí thông thường mà chủ tàu phải gánh chịu trong quá trình thực hiện hợp đồng vận chuyển bằng đường biển không phải là chi phí bất thường nên không phải là chi phí tổn thất chung.

b. Người thực hiện hành vi phải có hành động có chủ ý và hợp lý

Hành động có chủ ý là hành động có ý thức của con người. Họ nhận thức được việc mình làm và chủ động làm việc đó. Hành động hợp lý là hành động mà ai rơi vào hoàn cảnh đó thì cũng sẽ hành động tương tự như vậy. Trong ví dụ nêu trên, hành động cứu hộ là hành động có chủ ý và hợp lý của người cứu hộ nhằm đưa tàu và hàng hóa trên tàu thóat khỏi cạn.

Ví dụ: Một con tàu đang hành trình trên biển, phát hiện thấy trong hầm hàng có đám cháy, thuyền viên bơm nước cứu hỏa vào hầm hàng để dập tắt đám cháy làm hư hỏng một số hàng hóa trong hầm hàng. Trong trường hợp này, thuyền viên nhận thức được rằng nước cứu hỏa bơm vào hầm hàng để dập tắt đám cháy sẽ làm ướt hàng, nhưng họ vẫn chủ động bơm nudc cứu hỏa vào hầm hàng để dập tắt đám cháy nhằm cứu tàu và các hàng hóa khác. Hành động bơm nước cứu hỏa vào hầm hàng để dập tắt đám cháy, tuy có làm hư hỏng một số hàng hóa, nhưng là một hành động hợp lý. Bất kỳ thuyền viên nào cũng sẽ hành động như vậy nếu tàu của họ cũng gặp sư cố tương tự.

c. Hiểm họa cho tổn thất chung phải có thực

Hiểm họa có thực là là hiểm họa đang tồn tại trong thực tế, làm cho tàu và hàng hóa lâm vào tình trạng nguy hiểm.

Ví dụ 1: tàu gặp thời tiết xấu, hàng hóa bị xê dịch nên tàu bị nghiêng, không thể tiếp tục hành trình an toàn. Thuyền trưởng quyết định đưa tàu vào cảng lánh nạn để xếp lại hàng nhầm cân bằng tàu. Sự nghiêng của tàu là hiểm họa thực tế đe dọa an toàn chung của tàu và hàng hóa.

Ví dụ 2: Tàu rời cảng TP. Hồ Chí Minh ra Hải Phòng. Qua dự báo thời tiết, thuyền trưởng biết rằng có áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão đã vượt qua Philippines vào Biển Đông, đang hướng thẳng về Đà Nẵng và Quy Nhơn. Thuyền trưởng cho rằng trong vài ngày tới bão có thể sẽ đi ngang qua phía trước hành trình của tàu. Vì vậy, để an toàn cho tàu và hàng hóa, thuyền trưởng quyết định neo tàu tại Vũng Tàu chờ bão tan mới tiếp tục hành trình. Trong trường hợp này, bão chỉ là hiểm họa do thuyền trưởng suy đoán ở phía trước trong tương lai. Bão không đang tồn tại trong thực tế đe dọa an toàn chung của tàu và hàng. Vì vậy, các chi phí phát sinh do tàu neo tránh bão không được công nhận là chi phí tổn thất chung.

d. Người thực hiện hành động có ý thức và hợp lý đó phải vì an toàn chung

Vì an toàn chung là vì an toàn cho cả tàu và hàng hóa. Nếu chỉ vì an toàn riêng cho tàu hoặc vì an toàn riêng cho hàng thì không được công nhận là tổn thất chung.

Ví dụ: tàu chở hàng đông lạnh, trên hành trình máy lạnh bị hỏng. Thuyền trưởng buộc phải đưa tàu ghé vào cảng để sửa chữa máy lạnh, nếu không, hàng đông lạnh sẽ bị hư hỏng. Trong trường hợp này, việc tàu ghé vào cảng là vì an toàn cho hàng, còn đối với tàu thì không cần phải ghé vào cảng vẫn có thể hành trình an toàn. Vì vậy, các chỉ phí liên quan tới việc tàu ghé vào cảng để sửa chữa máy lạnh không vì an toàn chung cho cả tàu và hàng, nên không được công nhận là chi phí tổn thất chung.

 

3. Trường hợp theo pháp luật hàng hải không phải tổn thất chung

Tổn thất chung là những hy sinh và chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tàu, hàng hóa, hành lý, giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa, hành khách thoát khỏi hiểm họa chung.

Chỉ đối với những mất mát, hư hỏng và chi phí là hậu quả trực tiếp của hành động gây ra tổn thất chung mới được tính vào tổn thất chung.

Dưới đây là các trường hợp không đươic coi đó là tổn thất chung như sau:

Thứ nhất, mọi mất mát, hư hỏng và chi phí liên quan đến các thiệt hại đối với môi trường hoặc là hậu quả của việc rò rỉ hoặc thải các chất gây ô nhiễm từ tài sản trên tàu trong hành trình chung trên biển không được tính vào tổn thất chung trong bất kỳ trường hợp nào.

Thứ hai, tiền phạt do dỡ hàng chậm và bất kỳ tổn thất hay thiệt hại phải chịu hoặc các chi phí phải trả do chậm trễ dù trong hay sau hành trình và bất kỳ thiệt hại gián tiếp nào khác không được tính vào tổn thất chung.

Thứ ba, đối với các chi phí đặc biệt không vượt quá mức cần thiết theo quy định của pháp luật hàng hải Việt Nam.

4. Các bước giải quyết của chủ hàng khi chủ tàu tuyên bố tổn thất chung

Các bước giải quyết của chủ hàng khi chủ tàu tuyên bố tổn thất chung được thể hiện như sau:

Ngay sau khi nhận được thông báo về sự cố hay tai nạn hàng hải hoặc tuyên bố tổn thất chung của chủ tàu, chủ hàng phải thông báo ngay cho người bảo hiểm hàng.

Qua các thông tin về sự cố hay tai nạn hàng hải đo chủ tàu cung cấp, chủ hàng và người bảo hiểm hàng căn cứ vào bốn tiêu chí đặc điểm mà chúng ta đã phân tích ở phía trên của tồn thất chung có thể dễ dàng xác định xem sự cố hay tai nạn hàng hải đó có phải là một vụ tổn thất chung hay không.

Trước khi tàu dỡ hàng, chủ tàu hay đại lý của họ sẽ yêu cầu chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung.

Bảo đảm tổn thất chung thường bao gồm: Lloyd’s Average Bond, Valuation Form và Average Guarantee. Chủ hàng kê khai và ký Lloyd’s Average Bond, Valuation Form và yêu cầu người bảo hiểm hàng kê khai và ký Average Guarantee. Trường hợp tàu từ bỏ hành trình, chủ hàng sẽ phải ký thêm Non-Separation Agreement.

Theo quy định của pháp luật hàng hải cũng như tập quán hàng hải quốc tế, chủ tàu có quyền giữ hàng, nếu chủ hàng không chịu cung cấp bảo đảm tổn thất chung.

 

5. Vụ kiện minh họa cho quyền giữ hàng của tàu

Vụ kiện giữa Forestship Ltd và Mitsui & Co (USA) Inc nêu ở dưới đây là một ví dụ minh họa cho quyền giữ hàng của chủ tàu, vụ kiện được thể hiện như sau:

Ngày 23/03/1973, chủ tàu – Elias Shipping and Investment Corporation cho Forestship Ltd thuê định hạn tàu Spartan Bay.

Ngày 29/01/1974, Forestship Ltd cho Mitsui & Co (USA) Inc thuê lại tàu Spartan Bay theo phương thức thuê tàu chuyến để vận chuyển hàng sắt thép từ cảng La Spezia, Italy về cảng Apapa, Nigeria.

Trên hành trình của tàu, máy chính của tàu bị hỏng, tàu phải ghé vào cảng Las Polmas để sửa chữa máy chính của tàu đó, sau đó tiếp tục hành trình và về tới cảng dỡ hàng ngày 15/04/1974.

Chủ tàu đã tuyên bố tổn thất chung và yêu cầu các chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung, nhưng các chủ hàng không đáp ứng yêu cầu này của chủ tàu.

Chủ tàu đã chỉ thị cho thuyền trưởng không cho dỡ hàng. Mãi đến ngày 23/04/1974, các chủ hàng mới cung cấp bảo đảm tổn thất chung cho chủ tàu. Ngày 25/04/1974, tàu vào cầu dỡ hàng và kết thúc việc dỡ hàng ngày 15/05/1974.

Forestship Ltd yêu cầu Mitsui & Co (USA) Inc trả tiền phạt 21,5 ngày trên cơ sở tính thời gian làm hàng từ 08g00 ngày 16/04/1974, theo đó tính cả các ngày chủ tàu không cho dỡ hàng để yêu cầu các chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung. Mitsui & Co (USA) Inc chỉ trả tiền phạt 11,99 ngày vì theo họ, thời gian làm hàng bắt đầu tính từ 08g00 ngày 25/04/1974 (ngày tàu vào cầu dỡ hàng), các ngày chủ tàu không cho dỡ hàng để yêu cầu các chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung không được tính vào thòi gian làm hàng.

Ngày 02/02/1978, Forestship Ltd đã khởi kiện tại Trọng tài New York yêu cầu Mitsui & Co (USA) Inc trả tiền phạt cho số ngày mà chủ tàu không cho dỡ hàng để yêu cầu các chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung.

Hội đồng Trọng tài cho rằng tàu chậm trễ trong việc dỡ hàng ở cảng Apapa là do người nhận hàng của Mitsui & Co (USA) Inc không cung cấp kịp thời bảo đảm tổn thất chung. Trong trường hợp này, theo Điều khoản New Jason trong Hợp đồng thuê tàu, chủ tàu có quyền gỉữ hàng. Việc thuyền trưởng không cho dỡ hàng, mà giữ hàng ở trên tàu là hợp lý, vì theo luật Nigeria, một khi hàng hóa đã được dỡ khỏi tàu, chủ tàu sẽ mất quyền giữ hàng. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài đã phán quyết buộc Mitsui & Co (USA) Inc trả tiền phạt cho số ngày mà chủ tàu không cho dỡ hàng để yêu cầu các chủ hàng cung cấp bảo đảm tổn thất chung.

=> Kết luận: Qua vụ kiện trên có thể thấy rằng, khi xảy ra tổn thất chung, nếu chủ hàng không cung cấp kịp thời bảo đảm tổn thất chung thì có thể sẽ phát sinh nguy cơ chủ tàu lưu giữ hàng. Vì vậy, khi chủ tàu yêu cầu, chủ hàng cũng như người bảo hiểm hàng nên sớm kê khai và ký Lloyd’s Average Bond, Valuation Form và Average Guarantee, sau đó gửi lại ngay các tài liệu này cho chủ tàu.

Trân trọng!