1.Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế

Có hai hình thức: ICA thiết chế và ICA ‘vụ việc’ (‘ad hoc’). Trong trọng tài ‘ad hoc’, các bên lựa chọn trọng tài viên và quy chế trọng tài. Cách thức thông thường là các bên liên quan lựa chọn một trọng tài viên, tiếp đó, các trọng tài viên này sẽ chọn ra một trọng tài viên thứ ba. Hội đồng trọng tài ‘vụ việc’ sẽ tự lựa chọn quy tắc thủ tục trọng tài (ví dụ, Quy tắc trọng tài UNCITRAL). Trọng tài ‘vụ việc’ có thể được thoả thuận trước, hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Trọng tài ‘vụ việc’ giả định trước về sự thiện chí và tính linh hoạt của các bên. Nó có thể giúp giải quyết tranh chấp nhanh hơn và giảm chi phí trọng tài hơn so với trọng tài thiết chế. Trong trọng tài thiết chế, cần phải lựa chọn một trung tâm trọng tài cụ thể và quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm đó. Trọng tài thiết chế là trọng tài chuyên nghiệp, chất lượng cao mà đôi khi trọng tài ‘vụ việc’ không thể có. Phán quyết trọng tài được đưa ra bởi trung tâm trọng tài (bao gồm cả phán quyết có tính mặc định) dường như là có nhiều khả năng được công nhận tại toà án hơn, nếu việc thực thi phán quyết đó là cần thiết. Rất nhiều trung tâm trọng tài hiện nay cung cấp dịch vụ ‘giải quyết nhanh’ hoặc ‘rút gọn’ cho cộng đồng kinh doanh quốc tế. Một trong những việc các bên phải làm, khi họ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là lựa chọn hình thức giải quyết vụ việc của mình bằng trọng tài thiết chế hay trọng tài ‘ad hoc’.

2.Trọng tài thiết chế

Đối với trọng tài thiết chế, ưu điểm của nó là thực hiện các chức năng hành chính quan trọng. Những chức năng này đảm bảo cho các trọng tài viên được chỉ định một cách kịp thời, đảm bảo cho hoạt động trọng tài diễn biến hợp lí và đảm bảo các khoản lệ phí và chi phí trọng tài được chi trả trước. Xét từ quan điểm của trọng tài viên, đây là điểm thuận lợi vì họ không phải làm việc với các bên về các khoản tiền thù lao, vì vấn đề này đã được trung tâm trọng tài giải quyết. Hơn nữa, quy tắc trọng tài của trung tâm trọng tài đã được thời gian thử thách và khá hiệu quả trong việc giải quyết các trường hợp phát sinh. Một lợi thế nữa là nếu phán quyết trọng tài được đưa ra bởi một trung tâm trọng tài nổi tiếng, thì sẽ có uy tín đối với cộng đồng quốc tế và toà án. Điều này có thể khuyến khích bên thua kiện thừa nhận phán quyết của trọng tài.

 (a) Toà trọng tài quốc tế của ICC Toà trọng tài quốc tế của ICC là một tổ chức trọng tài nổi tiếng và uy tín nhất. Toà trọng tài quốc tế của ICC không phải là toà án theo nghĩa thông thường của thuật ngữ, cũng không phải là một phần của hệ thống tư pháp. Toà trọng tài chính xác là cơ quan hành chính chịu trách nhiệm giám sát quy trình tố tụng trọng tài. Các thành viên của Toà trọng tài bao gồm các chuyên gia pháp luật từ khắp nơi trên thế giới. Ngoài ra, Toà trọng tài có một Ban thư kí với đội ngũ nhân sự hành chính chuyên nghiệp và thường trực. Toà trọng tài của ICC khác với các tổ chức trọng tài khác là các phán quyết đều được xem xét kĩ lưỡng, theo đó các phán quyết đó sẽ không được đưa ra cho các bên cho đến khi được Toà trọng tài xem xét lại.

 (b) Trung tâm giải quyết tranh chấp quốc tế (‘ICDR’) của AAA Số lượng vụ việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại ICDR tăng hàng năm. Số liệu về giải quyết tranh chấp trong 10 năm, từ 1993 đến 2003, tăng ba lần, từ 206 lên 646 vụ việc. Hơn nữa, ICDR đã mở văn phòng ở nhiều nước khác.

(c) Toà Trọng tài quốc tế Luân-đôn (‘LCIA’) Đây cũng không phải là cơ quan toà án theo nghĩa pháp lí, mà đúng hơn là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát tổ chức trọng tài. Toà LCIA là cơ quan có thẩm quyền áp dụng các Quy tắc của LCIA. Nó cũng chịu trách nhiệm chỉ định hội đồng trọng tài, giải quyết các yêu cầu phản đối trọng tài viên và kiểm soát chi phí trọng tài. LCIA là tổ chức trọng tài quốc tế lâu đời nhất được thành lập từ cuối thế kỉ XIX. Người đứng đầu Ban thư kí của LCIA là một trợ lí hành chính và chịu trách nhiệm về các công việc hành chính, phục vụ cho hoạt động giải quyết tranh chấp của LCIA. Mặc dù LCIA có trụ sở chính ở Luân-đôn, nhưng tổ chức trọng tài sẽ chịu trách nhiệm giải quyết các vụ việc và áp dụng quy chế trọng tài của mình tại bất kì địa điểm giải quyết tranh chấp nào do các bên lựa chọn.

 (d) Các tổ chức trọng tài khác Tổ chức trọng tài của Phòng thương mại Xtốc-khôm (‘SCC’) đã trở nên đặc biệt nổi tiếng về giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài tại Đông Âu và Tây Âu; Uỷ ban trọng tài kinh tế và thương mại quốc tế Trung Quốc (‘CIETAC’) đã thông qua Bản quy tắc tố tụng trọng tài mới năm 2005; Trung tâm trọng tài và trung gian/hoà giải của WIPO có Quy tắc trung gian/hoà giải và trọng tài rất thích hợp trong lĩnh vực công nghệ, giải trí và các tranh chấp khác liên quan đến IPRs. Trọng tài quốc tế được đảm nhận bởi các cơ quan trọng tài tại Hồng Kông, Thụy Sỹ, Viên, Cai-rô, Đức, Vênê-du-ê-la, Mê-hi-cô và rất nhiều nước khác. Ngoài ra, còn có một số tổ chức trọng tài chuyên ngành như Hiệp hội thương mại ngũ cốc và thức ăn gia súc (‘GAFTA’), Hiệp hội trọng tài hàng hải Luân-đôn (‘LMAA’), Hiệp hội về dầu, hạt giống và chất béo liên bang (‘FIOFA’), và Tổ chức trao đổi kim loại Luân-đôn (‘LME’). Tất cả các trung tâm trọng tài này đều có các quy tắc hoạt động và thủ tục tố tụng trọng tài dựa trên cơ sở hoạt động của ngành kinh tế đó để giải quyết tranh chấp cho các thành viên của mình.

3.Quy tắc trọng tài UNCITRAL 

Quy tắc trọng tài UNCITRAL được phát hành năm 1976 sau 10 năm nghiên cứu. Quy tắc trọng tài UNCITRAL dự kiến sẽ được chấp nhận tại tất cả hệ thống pháp luật của tất cả các nước trên thế giới. Các DCs nhanh chóng ủng hộ Quy tắc trọng tài UNCITRAL, vì các nước này đang sử dụng nó trong quá trình soạn thảo quy tắc trọng tài, và cũng bởi vì UNCITRAL là diễn đàn để phát triển các quy tắc trọng tài mà trong đó các mối quan tâm của họ được lắng nghe. Viện trọng tài của Phòng thương mại Xtốc-khôm đã và đang sẵn sàng hoạt động theo các quy tắc UNCITRAL, giống như Toà trọng tài Luân-đôn. Toà trọng tài giải quyết yêu cầu bồi thường I-ran – Hoa Kỳ đã và đang sử dụng Quy tắc UNCITRAL. Quy tắc UNCITRAL quy định rằng việc chỉ định trọng tài viên do các bên lựa chọn, hoặc nếu các bên không đi đến thoả thuận nào về nội dung này, thì việc lựa chọn sẽ được trao cho Tổng thư kí của Toà trọng tài thường trực La Hay (bao gồm các cá nhân luôn sẵn sàng làm trọng tài viên, nếu được yêu cầu). Quy tắc UNCITRAL cũng bao gồm quy định về yêu cầu thông báo, đại diện của các bên, phản đối trọng tài viên, chứng cứ, các phiên xét xử, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ, các tuyên bố về yêu sách và biện hộ, các yêu cầu giải quyết về thẩm quyền của trọng tài viên, các biện pháp khẩn cấp tạm thời, các biện pháp khắc phục vi phạm, chuyên gia, các quy định về vắng mặt trong tố tụng, quy tắc về miễn trừ, hình thức và tác động của phán quyết trọng tài, luật áp dụng, giải quyết tranh chấp, việc giải thích các phán quyết và chi phí trọng tài. Cùng với Quy tắc trọng tài mẫu 1976, UNCITRAL đã ban hành Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế 1985. Luật mẫu đã được áp dụng tại Úc, Hồng Kông và Xcốt-len. Nó cũng được thông qua và trở thành luật nội địa của một số bang của Hoa Kỳ, bao gồm Ca-li-phoóc-ni-a, Phờ-lo-ri-đa, Bắc Ca-rô-lai-na, Con-nếc-ti-cớt, Gioóc-gi-a, Ô-hai-ô, Ô-re-gon và Tếc-dát. Theo Luật mẫu của UNCITRAL, các bên có thể đệ trình giải quyết tranh chấp và yêu cầu một trọng tài ‘vụ việc’ để giải quyết một tranh chấp cụ thể, nhưng điều đó gần như đã được xác định từ trước khi xảy ra tranh chấp, theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Theo Điều 8 của Luật mẫu, một thoả thuận trọng tài phải có tính thực thi cụ thể. UNCITRAL giới thiệu điều khoản trọng tài mẫu sau đây: ‘Bất kì tranh chấp, tranh cãi hoặc khiếu nại nào phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng này, hoặc vi phạm hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng hoặc hợp đồng vô hiệu, sẽ phải được giải quyết bằng trọng tài theo các Quy tắc trọng tài UNCITRAL còn hiệu lực thi hành’.

4.Quy tắc và điều khoản trọng tài ICC và LCIA

Rất nhiều các điều khoản trọng tài sử dụng Quy tắc của Toà trọng tài ICC tại Pa-ri. ICC giới thiệu điều khoản mẫu như sau: ‘Tất cả các tranh chấp phát sinh có liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết theo Quy tắc về hoà giải và trọng tài của Phòng thương mại quốc tế bởi một hoặc nhiều trọng tài viên được chỉ định theo Quy tắc nói trên.’ Các bên mong muốn giải quyết bất kì tranh chấp nào ở Toà trọng tài Luân-đôn đều có thể sử dụng điều khoản mẫu sau: Giá trị, giao kết, và thực hiện hợp đồng (thoả thuận) này sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của Anh; và bất kì tranh chấp nào phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng (thoả thuận) này, bao gồm cả giá trị, giao kết và thực hiện hợp đồng (thoả thuận) này, sẽ được giải quyết bằng phương thức trọng tài theo Quy tắc của Toà trọng tài Luân-đôn, từ ngày mà theo Quy tắc này, nếu các vấn đề không được Quy tắc này điều chỉnh, thì sẽ được kết hợp áp dụng Quy tắc trọng tài UNCITRAL. Các bên đồng ý rằng bất kì thông báo nào có liên quan tới trọng tài sẽ được tới địa chỉ của các bên đã nêu trong hợp đồng (thoả thuận) này (hoặc sau đó thay đổi bằng văn bản giữa các bên) sẽ được coi là hợp lệ và đầy đủ.

5. Thi hành các phán quyết của trọng tài theo quy định của Công ước New York

 Công ước Niu Y-oóc đã tạo thuận lợi cho việc thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài ở hơn 140 nước. Công ước Niu Y-oóc yêu cầu toà án ở nước thành viên có nghĩa vụ công nhận và cho thi hành các điều khoản trọng tài và thoả thuận trọng tài như là giải pháp cho tranh chấp thương mại quốc tế. Trong trường hợp toà án thừa nhận rằng các bên có điều khoản hoặc thoả thuận trọng tài, thì toà án ‘phải… đưa vụ việc giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài đó vô hiệu, thoả thuận trọng tài không hoặc không thể thực hiện được’. Công ước Niu Y-oóc cũng cam kết rằng toà án của các nước thành viên phải công nhận và cho thi hành (theo luật tố tụng của nước đó) phán quyết của trọng tài nước ngoài theo điều khoản hoặc thoả thuận trọng tài, cũng như quy định các căn cứ nhất định cho việc từ chối công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài. Theo Công ước Niu Y-oóc, các căn cứ không công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài bao gồm: – ‘Chiếu theo luật áp dụng’ của một bên, thì thoả thuận về trọng tài là vô hiệu hoặc không có thoả thuận trọng tài; – Thiếu thông báo kịp thời về quá trình tố tụng trọng tài, chỉ định trọng tài viên và các lí do hợp lí khác để từ chối cơ hội thoả đáng trình bày lời biện hộ; – Phán quyết trọng tài không nằm trong điều khoản mà các bên đưa ra giải quyết bằng phương thức trọng tài; hoặc quyết định về những vấn đề ngoài phạm vi của nội dung đề nghị trọng tài giải quyết; – Thành phần hội đồng trọng tài không phù hợp với thoả thuận trọng tài của các bên hoặc luật áp dụng; và – Theo luật áp dụng, phán quyết của trọng tài không phải là chung thẩm. Ngoài những căn cứ nêu trên, việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài cũng có thể bị từ chối, nếu phán quyết đó trái với chính sách công tại nước được yêu cầu thi hành phán quyết; hoặc nếu nội dung vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng phương thức trọng tài theo luật của nước đó. Toà án ở Hoa Kỳ đưa ra quan điểm theo đó ‘sự giới hạn về chính sách công theo Công ước Niu Y-oóc được giải thích theo nghĩa hẹp và chỉ được áp dụng khi việc thi hành phán quyết trọng tài đó vi phạm khái niệm gần như cơ bản của pháp luật của bang có toà án về đạo đức và công lí’. Trong trường hợp không có sự vi phạm nêu trên, thì sự viện dẫn những giới hạn khác của Công ước Niu Y-oóc để không áp dụng các quy định đó, sẽ bị soi xét theo đúng luật tố tụng. Việc Công ước Niu Y-oóc có được áp dụng hay không là tùy thuộc vào nơi mà phán quyết trọng tài đã hoặc sẽ được đưa ra, chứ không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên tranh chấp. Thoả thuận trọng tài, theo truyền thống được gọi là thoả hiệp, tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Nhiều trung tâm trọng tài thường đưa ra điều khoản mẫu để đưa vào các thỏa thuận kinh doanh. Sự tồn tại và giá trị pháp lí của một thoả thuận trọng tài phải được chứng minh hoặc quyết định theo phương thức tranh tụng trước toà án, trước khi diễn ra tố tụng trọng tài. Điều II Công ước Niu Y-oóc yêu cầu các nước phải công nhận thoả thuận trọng tài bằng văn bản có chữ kí của các bên, ‘hoặc được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng thư từ hoặc điện tín’. Hầu hết các cơ quan tài phán đều chấp nhận nội dung trao đổi của các bên bằng fax, thư điện tử hoặc các hình thức tương tự khác có chứa đựng thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, điều khoản trọng tài trong các đơn mua hàng không có chữ kí sẽ không được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản. Việc trì hoãn tiến hành các thủ tục bắt đầu tố tụng trọng tài hoặc sự viện dẫn các quyền tố tụng tại toà án có thể dẫn đến việc mất quyền giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Trong trường hợp các phán quyết trọng tài vô hiệu, toà án tại nơi được đề nghị thi hành phán quyết trọng tài đó thường có quan điểm khác nhau về việc thi hành phán quyết này. Toà án của Pháp đã cho thi hành một phán quyết trọng tài, mà trước đó đã bị vô hiệu, một cách vô lí và gây thiệt hại cho nguyên đơn – người đã thắng trong vụ giải quyết tranh chấp tại trọng tài lần thứ hai (vụ Hilmarton v. OTV, 1997, Rev. Arb. 376). Một toà án cấp liên bang ở Hoa Kỳ đã từ chối chấp nhận việc tuyên bố vô hiệu một cách hợp pháp của một toà án Hy Lạp đối với phán quyết trọng tài, bởi vì các bên tranh chấp đã thoả thuận không phúc thẩm phán quyết trọng tài (vụ Chromalloy Aeroservices v. Egypt, 939 F. Supp. 907 (DDC [1996]). Toà án tối cao Hoa Kỳ đã tái khẳng định rằng trọng tài viên có thẩm quyền quyết định thẩm quyền xét xử của mình. Sự im lặng hoặc không rõ ràng về sự tham gia của trọng tài viên cần phải được xem xét theo quy tắc tố tụng toà án. Các toà án Hoa Kỳ cũng có ý kiến khác nhau về việc các bên tranh chấp có thể thay đổi phạm vi xem xét lại của toà án đối với các phán quyết của trọng tài hay không.

Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)