1. Tổng quan về thương mại dịch vụ pháp lý:

1.1.  Dịch vụ pháp lý? Đặc điểm của dịch vụ pháp lý

Theo nghĩa rộng, dịch vụ pháp lý có thể định nghĩa là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện pháp lý và mọi hoạt động liên quan đến hành chính tư pháp (thẩm phán, thư ký phiên toà, công tố…). Theo GATS, dịch vụ pháp lý bao gồm “các dịch vụ về tư vấn và đại diện cũng như tất cả các hoạt động khác liên quan tới tố tụng” (như hoạt động của thẩm phán, thư ký tòa án, công tố…). Tuy nhiên, khía cạnh thứ hai (hoạt động liên quan tới tố tụng) đã bị loại ra khỏi phạm vi của GATS bởi tại hầu hết các quốc gia, đây được coi là “loại hình dịch vụ do chính phủ thực hiện”. Do vậy, GATS chỉ quy định về các dịch vụ đại diện và tư vấn trong một số ngành luật và các thủ tục pháp lý.

1.2. Sự cần thiết tự do hóa thương mại dịch vụ pháp lý: 

Nhìn chung, mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các nền kinh tế, bao gồm cả các nước đang phát triển, với điều kiện được thực hiện một cách thận trọng. Đối với tất cả các nền kinh tế, lợi ích có được từ tự do hoá thương mại dịch vụ là lớn hơn rất nhiều so với thương mại hàng hoá. Thứ nhất là do mức độ bảo hộ của thương mại dịch vụ cao hơn so với các lĩnh vực khác, và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong nền kinh tế. Thứ hai, dịch vụ pháp lý đang ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt trong giải quyết các quan hệ quốc tế, đặc biệt là khi xảy ra các tranh chấp quốc tế, do vậy thị trường dịch vụ mở cửa hơn nữa có thể tác động mạnh mẽ đến tổng thể nền kinh tế. 

2. các loại rào cản phổ biến đối với tự do hóa thương mại dịch vụ pháp lý

2.1.  Rào cản về tiếp cận thị trường

Trước đây các hoạt động pháp luật hầu như được thực hiện để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho con người, và thường được thực hiện là công việc theo thẩm quyền của Chính Phủ các quốc gia. Ngày nay, nhiều hoạt động pháp lý được hình thành gắn với mục đích thương mại và người thực hiện các hoạt động đó được nhận thù lao. Tuy nhiên khi thực hiện các hoạt động pháp lý không thể tránh khỏi những khó khăn, nhất là các rào cản nhất định khi chúng được khái quát trở thành dịch vụ sinh lời.

Rào cản về tiếp cận thị trường của dịch vụ pháp lý có thể quan sát rõ thông qua hoạt động đại diện cũng như tư vấn pháp luật. Các văn phòng đại diện pháp luật, chi nhánh tư vấn pháp luật nước ngoài phải đáp ứng các tiêu chí khắt khe được quy định trong pháp luật nội địa để có thể thành lập văn phòng đại diện pháp luật hay chi nhánh tư vấn pháp luật. Và một điều khá chắc chắn đó là những khách hàng tìm kiếm dịch vụ pháp lý thường tìm đến các văn phòng đại diện hay chi nhánh tư vấn trong nước và của nước mình để được trợ giúp. Điều này cũng dễ hiểu bởi các văn phòng, chi nhánh này của nước nội địa sẽ cung cấp nhân lực, kiến thức pháp lý dễ dàng, nhanh chóng hơn so với các văn phòng đại diện hay chi nhánh của nước ngoài bởi dù gì thì các văn phòng nội địa nắm bắt và hiểu rõ pháp luật nội địa hơn so với các chủ thể nước ngoài. 

2.2. Rào cản về đối xử quốc gia (rào cản về NT)

Các rào cản về đối xử quốc gia đồng nghĩa với việc các thành viên sẽ thực hiện một số hành vi gây phân biệt đối xử với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của thành viên khác kém thuận lợi hơn sự đối xử với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của mình, thường thì những chúng đã được liệt kê trong Biểu cam kết cụ thể của từng thành viên. Đối với dịch vụ đặc thù như dịch vụ pháp lý, các hạn chế về đối xử quốc gia thường xuất hiện khi các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã tiếp cận được thị trường một quốc gia thành viên khác nhưng khi thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ trong lãnh thổ thành viên đó phải tuân theo một số quy định hoặc chính sách có xu hướng gây nên sự đối xử kém thuận lợi so với các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý mang quốc tịch của thành viên đó. 

2.3. Rào cản về pháp luật nội địa

Pháp luật của các nước nội địa thường sẽ là một khó khăn lớn đối với các Luật sư của LVN Group, các văn phòng thực hiện hoạt động pháp lý, một mặt bởi khó khăn trong bất đồng ngôn ngữ, tuy rằng trước khi tiếp cận vào nước nội địa, họ đã phải tìm hiểu khá kỹ về ngôn ngữ, tập quán pháp luật nội địa, nhưng không thể nào tránh được rắc rối khi đọc và hiểu các thuật ngữ về pháp luật. Tùy vào ngữ cảnh, đối tượng sử dụng mà ý nghĩa của các thuật ngữ đều khác nhau, thêm cả việc có những thuật ngữ mang ý nghĩa gần giống nhau nhưng trên thực tế khi sử dụng để phân tích, tư vấn thì lại khác nhau rất xa. Điều này gây khó khăn lớn cho dịch vụ pháp lý khi gặp phải pháp luật nội địa. Đồng thời thì trong các quy định của pháp luật nội địa cũng phần nào giới hạn quyền, lợi ích của các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động dịch vụ pháp lý so với các doanh nghiệp, cá nhân mang quốc tịch của quốc gia sở tại. Việc này khiến dịch vụ pháp lý đã khó nay còn khó hơn một phần vì phải thay đổi để phù hợp với các yêu cầu trong pháp luật nội địa.

2.4. Rào cản về vấn đề công nhận

Vấn đề công nhận cũng đang trở thành vấn đề nan giải cho dịch vụ pháp lý có thể phát triển. Việc công nhận về bằng cấp hay trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, giấy chứng nhận,… của các Luật sư của LVN Group tư vấn, hoặc các chủ thể khác hoạt động liên quan đến pháp luật cũng gặp nhiều trắc trở, bởi tiêu chuẩn để được công nhận bởi Chính phủ các quốc gia khác nhau, ngoài các tiêu chuẩn chung về bằng cấp, các quốc gia thường kèm theo các tiêu chuẩn khá cao khác cho các chủ thể hoạt động dịch vụ đặc thù- dịch vụ pháp lý.

3. Bình luận
3.1. Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ pháp lý của Việt Nam trong khuôn khổ EVFTA

Việt Nam quy định rõ ràng rằng dịch vụ pháp lý từ các thành viên EU cung cấp vào Việt Nam không bao gồm: – tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư của LVN Group bào chữa hay đại diện cho khách hàng của mình trước Tòa án Việt Nam; – dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam

– Cam kết về hạn chế tiếp cận thị trường: Không đưa ra hạn chế nào đối với phương thức cung ứng dịch vụ thứ nhất và thứ hai. Nhưng đối với phương thức thứ ba, Việt Nam đưa ra các hạn chế sau đây. Tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: 

+ Chi nhánh của tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài; 

+ Công ty con của tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài; 

+ Công ty luật nước ngoài; 

+ Công ty hợp danh giữa tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam. Hiện diện thương mại của tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài được phép tư vấn luật Việt Nam nếu Luật sư của LVN Group tư vấn đã tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được các yêu cầu áp dụng cho Luật sư của LVN Group hành nghề tương tự của Việt Nam.

– Cam kết về hạn chế đối xử quốc gia: Việt Nam không đưa ra bất kì hạn chế nào về đối xử quốc gia đối với cả ba phương thức cung ứng dịch vụ.

3.2. Bình luận về các hạn chế trong EVFTA về dịch vụ pháp lý:

Ngay phần bắt đầu khi nêu tên ngành và phân ngành dịch vụ cụ thể, Việt Nam đã chỉ định rất rõ ràng luôn các hoạt động trong dịch vụ pháp lý mà Việt Nam không mở cửa trong EVFTA. Đó là hai hoạt động tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư của LVN Group bào chữa hay đại diện cho khách hàng của mình trước Tòa án Việt Nam; dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam. Sở dĩ chính phủ Việt Nam đưa ra các hoạt động không được mở cửa khi các nhà cung cấp dịch vụ từ phía EU vào Việt Nam như vậy là hợp lý cả về lý thuyết và thực tiễn. Bởi, đối với hia hoạt động không được mở cửa nêu trên, cần đáp ứng các yêu cầu về mặt kiến thức pháp lý và kinh nghiệm từ những Luật sư của LVN Group, công chứng viên hoạt động trong lĩnh vực pháp lý. Các yêu cầu đó đối với Luật sư của LVN Group và công chứng viên trong nước đã rất khó khăn để đạt được nên việc các Luật sư của LVN Group khác cũng như công chứng viên nước ngoài cũng rất khó để thành công, không chỉ là hạn chế về vấn đề công nhận bằng cấp,…  Ngoài ra, việc tham gia vào quá trình tố tụng sẽ làm lộ ra những khuyết điểm (mặc dù vẫn có ưu điểm tồn tại song song)  của hệ thống pháp luật nước nhà, thủ tục xét xử,… điều này có thể sẽ bị mang ra làm tiêu chí so sánh và làm giảm đi chất lượng và uy tín của dịch vụ pháp lý Việt Nam.

Đối với hạn chế về tiếp cận thị trường, Việt Nam không hề đưa ra bất kì rào cản hay hạn chế nào đối với phương thức cung ứng thứ nhất là cung ứng dịch vụ qua biên giới và phương thức cung ứng dịch vụ thứ hai là tiêu dùng dịch vụ ở quốc gia khác. Cả hai phương thức này đề là các phương thức cung ứng dịch vụ trực tiếp giữa nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng, chứ không có sự tham gia của bên thứ ba như hai phương thức cung ứng dịch vụ cuối. Việt Nam không có bất kì hạn chế nào, trừ các hạn chế có trong cam kết chung, một phần vì lí do trên, nhằm thúc đẩy giao thương dịch vụ, thu hút đầu tư từ các quốc gia thành viên trong EU thực hiện các hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý theo hai phương thức đầu tiên và ngược lại cũng khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ trong nước tích cực mở rộng dịch vụ của mình ra nước ngoài để mở rộng độ nổi tiếng và nhận biết của Việt Nam, đồng thời có thể tạo cơ hội nhằm học hỏi những ưu thế về pháp luật và các hoạt động liên quan đến dịch vụ pháp lý nhằm nâng cao hơn các hoạt động pháp luật trong nước. Bên cạnh đó, đối với phương thức thứ ba, Việt Nam quy định rõ các hình thức của hiện diện thương mại mà các tổ chức Luật sư của LVN Group nước ngoài có thể thành lập. Việc quy định rõ ràng, hợp lý từ việc cơ cấu tổ chức đến các yêu cầu về kinh nghiệm, kiến thức mà các Luật sư của LVN Group nước ngoài phải đạt được giúp cho họ hoạt động một cách dễ dàng, phù hợp với pháp luật Việt Nam, tránh được ít nhất các rủi ro từ các tranh chấp liên quan phát sinh.

Đối với hạn chế về đối xử quốc gia, Việt Nam không đưa ra bất kì hạn chế nào về đối xử quốc gia đối với cả ba phương thức cung ứng dịch vụ. Điều này giúp cho việc linh hoạt đặt ra các yêu cầu, quy định cần đáp ứng cho các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý từ EU vào Việt Nam sao cho phù hợp với thực tiến sử dụng dịch vụ, bởi đây là một ngành dịch vụ khá đặc thù, yêu cầu chuyên môn và hiểu biết cao. Trái lại, việc không hạn chế này lại dễ gây hoang mang, tâm lý chủ quan cho cả nhà cung cấp dịch vụ trong nước và cả nước ngoài trong khuôn khổ EVFTA vì không thể đoán trước hay biết về các hạn chế, rào cản mà mình phải đáp ứng đúng, phù hợp yêu cầu.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật  – Công ty luật LVN Group