1. Khái quát chung

Cho đến nay các nhà kinh tế học trên thế giới đã nghiên cứu, đúc kết được nhiều lý thuyết giải thích về các yếu tố thu hút đầu tư, cũng như việc dịch  chuyển đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế, đầu tư luôn được nhìn nhận như là một quá trình phát triển phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố có thể thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. Chưa có lý thuyết nào giải quyết được tất cả các khía cạnh của quá trình đầu tư, mỗi lý thuyết đều có những điểm mạnh và những hạn chế riêng. Các lý thuyết về thu hút FDI có thể tiếp cận theo các khía cạnh sau:

2. Lý thuyết về xuất khẩu tư bản của V.I. Lênin

Theo V.I. Lênin, lợi ích của việc xuất khẩu tư bản là tìm kiếm nơi đầu tư có lợi nhất, hiện tượng thừa tương đối tư bản đã thôi thúc các nhà tư bản tìm cách đưa tư bản ra nước ngoài. Ở nước ngoài, các tập đoàn tư bản khai thác được những điều kiện thuận lợi về tài nguyên phong phú, nhân công giá rẻ, thị trường tiêu thụ mới… từ đó mà thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với việc đầu tư tại chính quốc. Trong mối quan hệ lợi ích đó, tất nhiên địa phương hay quốc gia tiếp nhận đầu tư (tư bản xuất khẩu) cũng phát huy được những lợi thế của mình.
Như vậy, theo quan điểm của V.I. Lênin, yếu tố căn cốt nhất tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia (hay địa phương) đó là, lợi ích của việc đầu tư tại chính quốc hay không? khi lợi ích tại (địa phương) nhận đầu tư lớn hơn lợi ích thu được so với đầu tư tại chính quốc thì lượng tư bản thừa tương đối sẽ được đem đến để đầu tư tại đó thay vì đầu tư tại chính quốc [61].  Lý luận này của V.I. Lênin vạch ra bản chất sâu xa nhất của việc thu hút đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài.

3. Lý thuyết về lợi nhuận cận biên tác động đến thu hút FDI

Dougall cho rằng dòng chảy vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước có lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau).
Kết quả của hoạt động đầu tư là cả hai nước đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới tăng lên so với trước lúc đầu tư. Sự phù hợp của lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận trong những năm 1950 nhưng khi tình hình kinh tế trở nên thiếu ổn định, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài của Mỹ giảm đi đến mức thấp hơn tỷ suất lợi nhuận đầu tư trong nước, nhưng hoạt động FDI của Mỹ ra nước ngoài vẫn tăng liên tục. Tuy nhiên, mô hình lý thuyết này không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra. Chính vì vậy, mô hình lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể được coi là bước khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu các hoạt động FDI.

4. Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm

Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm 1966 [100]. Theo Vernon bất kỳ một sản phẩm mới nào đều phát triển qua 4 giai đoạn:
(1) Giai đoạn được phát minh và giới thiệu;
(2) Giai đoạn phát triển và đi tới hoàn thiện;
(3) Giai đoạn hoàn thiện hay được tiêu chuẩn hóa;
(4) Giai đoạn suy thoái của sản phẩm.
Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm giải thích sự tập trung phát triển  công nghiệp hóa ở các nước phát triển, đưa ra một quan điểm về việc hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế nhằm lý giải sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nước công nghiệp hóa. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ còn quan trọng đối với việc giải thích các công ty FDI có quy mô nhỏ vào các nước đang phát triển.

5. Lý thuyết thị trường độc quyền

Lý thuyết thị trường độc quyền được xây dựng bởi Hymer và Kindleberger [79]; [84]. Theo lý thuyết này, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố:
(1) Quá trình liên kết theo chiều dọc của các giai đoạn khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản xuất;
(2) Việc sản xuất và khai thác kỹ thuật mới;
(3) Cơ hội mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên lạc.
Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham và Krugman vận dụng để giải thích cho sự gia tăng của hoạt động FDI vào nước Mỹ [85]. Lý thuyết thị trường độc quyền được đánh giá là giả thuyết chưa hoàn chỉnh về hoạt động FDI. Lý thuyết này vẫn không trả lời được vì sao công ty trong nước lại sử dụng hình thức FDI chứ không phải là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình thức cấp giấy phép hoặc chuyển nhượng những bí quyết đặc biệt của mình cho các công ty ở nước tiếp nhận đầu tư.

6. Lý thuyết “đàn nhạn bay”

Lý thuyết “đàn nhạn bay” của Akamatsu [67] chia quá trình phát triển sản phẩm thành 3 giai đoạn:
(1) Giai đoạn sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước;
(2) Giai đoạn tăng cường sản xuất trong nước để thay thế cho nhập khẩu;
(3) Giai đoạn sản xuất để xuất khẩu.
Hoạt động FDI được triển khai thực hiện ở giai đoạn (2) và (3) để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế tương đối. Ozawa cho rằng các nước đang phát triển có lợi thế tương đối về lao động giá rẻ, sẽ thu hút nguồn vốn FDI vào để khai thác lợi thế này [67]. Tuy nhiên, chi phí nhân công của ngành sau đó sẽ dần lên do nguồn tài nguyên lao động của địa phương đã khai thác hết và sức hút FDI vào sẽ giảm dần. Khi đó các công ty trong nước sẽ đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế tương đối của nước này, nơi có lao động rẻ hơn, đó là quá trình liên tục của hoạt động FDI. Mô hình “đàn nhạn bay” đã chỉ ra rằng khi một nước đang phát triển đuổi kịp ở giai đoạn cuối cùng của một ngành công nghiệp từ kinh tế thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn hơn tỷ lệ FDI vào, điều này có nghĩa là một quốc gia đứng đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm nhất định sẽ trở nên lạc hậu và bị một nước khác thay thế vị trí đó. Mô hình “đàn nhạn bay” đã đưa ra gợi ý đối với sự khác nhau về lợi thế so sánh tương đối giữa các nước dẫn đến sự khác nhau về dòng chảy của FDI. Tuy nhiên, mô hình này cũng không giải thích được vì sao FDI lại diễn ra giữa các nước tương tự về các yếu tố và lợi thế tương đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác và vấn đề quan trọng hơn là mô hình này bỏ qua vai trò của yếu tố cơ cấu kinh tế và thể chế.

7. Lý thuyết chiết trung (Mô hình OLI)

Một công ty có lợi thế tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài khi có lợi thế về sở hữu, địa điểm và nội hóa. Mô hình OLI được Dunning xây dựng và kế thừa những ưu điểm của các lý thuyết khác về đầu tư trực tiếp nước ngoài, và đề xuất rằng có 3 điều kiện cần thiết để một doanh nghiệp có động cơ tiến hành đầu tư trực tiếp:
(1) Lợi thế về sở hữu (O – Ownership Advantages) của một doanh nghiệp có thể là một sản phẩm hoặc một qui trình sản xuất có ưu thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp khác không thể tiếp cận, đó có thể là bằng sáng chế, kế hoạch hành động, công nghệ và thông tin, kỹ năng quản lý, marketing, hệ thống tổ chức và khả năng tiếp cận các thị trường hàng tiêu dùng cuối cùng hoặc các hàng hóa trung gian hoặc nguồn nguyên liệu thô, hoặc khả năng tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp…
(2) Lợi thế về địa điểm (L – Location Advantage) ngoài các yếu tố về nguồn lực, tài nguyên của đất nước còn có các yếu tố về kinh tế xã hội như qui mô thị trường và sự tăng trưởng và phát triển của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, văn hóa, pháp luật, thể chế và chính sách của Chính phủ.
(3) Lợi thế về nội hóa (I – Internalisation Advantages) bao gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng.
Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thỏa mãn đối với các nước thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những yếu tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế sở hữu và lợi thế nội hóa, còn lợi thế địa điểm tạo ra yếu tố “kéo” đối với FDI.

8. Lý thuyết về các bước phát triển của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Theo quan điểm của lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: khi lợi thế về địa điểm của một nước (địa phương) kém hấp dẫn, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ vào không nhiều do những hạn chế của thị trường trong nước như: quy mô thị trường yếu, cơ sở hạ tầng đầu tư kém, giáo dục yếu kém, lao động không có kỹ năng,… và hiếm khi thấy luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Giai đoạn 2: Nguồn vốn FDI vào địa phương bắt đầu tăng do lợi thế về địa điểm đã thu hút các nhà đầu tư: KCHT đầu tư đã được cải thiện, sức mua trong nước bắt đầu tăng … nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nhằm thay thế nhập khẩu, những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế và luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn này còn hạn chế.
Giai đoạn 3: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bắt đầu giảm và luồng ra của nguồn vốn này lại bắt đầu tăng. Kỹ thuật sản xuất của nước thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Giai đoạn 4: lợi thế sở hữu của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ lạc hậu sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ tiên tiến có chi phí cao. Tuy nhiên các chi phí vốn sẽ trở nên rẻ hơn so với chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế địa điểm của nước sở tại sẽ chuyển sang các tài sản. Do vậy, luồng vào và luồng ra của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tăng, nhưng luồng ra sẽ nhanh hơn.
Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng và khối lượng tương tự nhau.
8. Lý thuyết về môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Dựa trên cơ sở về chi phí cơ hội, rủi ro và những rào cản cạnh tranh trong đầu tư các nhà đầu tư tìm hiểu những cơ hội và động lực để đầu tư đến một địa phương nào đó. Các nghiên cứu gần đây đã tiến hành xác định và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế địa phương, kết quả cho thấy có sự khác biệt lớn về môi trường kinh doanh và chênh lệch về mức độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, giữa các tỉnh và khu vực khác nhau trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa các địa phương trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài là chính quyền và môi trường pháp lý của từng địa phương.
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên có thể phân thành 2 loại như sau: (1) KCHT cứng (hạ tầng, cảng biển, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực), đây là những yếu tố cần phải có thời gian và nguồn tài chính để cải thiện; (2) cơ sở hạ tầng mềm (năng lực của chính quyền, chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư…) đây là nhóm yếu tố liên quan đến triết lý lãnh đạo của các nhà quản lý địa phương.

9. Lý thuyết tiếp thị địa phương

Các nhà đầu tư đầu tư vào địa phương nào đó có hiệu quả có nghĩa là họ thỏa mãn với địa phương đó. Khi đầu tư vào một địa phương nào đó mang lại hiệu quả và đạt được mục tiêu thì họ sẽ có xu hướng tiếp tục quá trình đầu tư của mình cũng như giới thiệu cho các công ty khác đầu tư tại địa phương.
Có rất nhiều yếu tố về môi trường đầu tư có khả năng tác động vào sự thỏa mãn của khách hàng đầu tư tại một địa phương và có thể chia thành ba nhóm chính, đó là: (1) Kết cấu hạ tầng đầu tư; (2) chế độ, chính sách đầu tư và
(3) môi trường làm việc và sinh sống.
* Lý thuyết về cạnh tranh địa phương
Theo Michael Porter [94], để tạo ra lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp phải đáp ứng được 4 tiêu chí sau: (1) Dựa vào hiệu suất lao động và vốn tạo ra hiệu suất lớn hơn, chi phí thấp hơn để nâng cao hiệu quả hoạt động; (2) Nâng  cao chất lượng, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đem lại giá trị cao cho khách hàng;
(3) Đổi mới tạo ra sự khác biệt của công ty (của địa phương) với các đối thủ và đòi hỏi một mức giá tăng thêm cho sản phẩm của nó hoặc giảm chi phí đáng kể so với đối thủ; (4) Tạo ra sự thỏa mãn cho khách hàng trong việc nhận biết và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của DN được xác định, bao gồm: chiến lược cạnh tranh của DN; quy mô sản xuất của DN; trình độ tổ chức, quản lý; nguồn lực; trình độ công nghệ; hoạt động nghiên cứu phát triển; năng lực cạnh tranh của sản phẩm; thị phần; năng suất sản xuất, kinh doanh; hiệu quả kinh doanh; thương hiệu của DN.
10. Lý thuyết về chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của địa phương, của vùng nhận đầu tư
Môi trường đầu tư tại nước sở tại hay tại địa phương thuộc một vùng kinh tế muốn đầu tư là yếu tố quan trọng hàng đầu cần được xem xét khi muốn đầu tư vào địa phương đó vì vậy đây được xem là yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh giữa các địa phương. Khi nghiên cứu về chất lượng dịch vụ, mà cụ thể trong nghiên cứu này là chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi địa phương thu hút đầu tư. Mỗi nhà đầu tư thường cảm nhận khác nhau về chất lượng dịch vụ vì vậy việc khách hàng tham gia phát triển và đánh giá chất lượng dịch vụ là rất quan trọng.
Đã có nhiều nghiên cứu khác nhau kế thừa mô hình 05 thành phần chất lượng dịch vụ của Parasuraman trong nhiều lĩnh vực và thị trường khác nhau và cho thấy rằng chất lượng dịch vụ giữa các ngành là khác nhau. Mô hình 05 thành phần chất lượng dịch vụ (SERVQUAL) do Parasuraman nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ cho rằng yếu tố tin cậy, yếu tố khả năng đáp ứng, yếu tố năng lực phục vụ, yếu tố đồng cảm và yếu tố phương tiện hữu hình là những thành phần nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ [93]. Cụ thể:
– Yếu tố tin cậy: được thể hiện khi dịch vụ được thực hiện đúng như lời hứa một cách chính xác và đúng thời hạn thông qua khả năng thực hiện dịch vụ của nhân viên.
– Yếu tố khả năng đáp ứng: được thể hiện qua việc nhân viên sẵn sàng cung cấp các yêu cầu, dịch vụ kịp thời khi khách hàng yêu cầu.
– Yếu tố năng lực phục vụ: thông qua trình độ chuyên môn, phong cách tác phong của nhân viên, khách hàng sẽ cảm nhận được sự chuyên nghiệp cũng như năng lực của nhân viên.
– Yếu tố sự đồng cảm: được thể hiện thông qua sự quan tâm, hỗ trợ và chăm sóc của nhân viên đến từng khách hàng.
– Yếu tố phương tiện hữu hình: khách hàng sẽ cảm nhận được chất lượng dịch vụ thông các những tài sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ nhằm phục vụ khách hàng.
Những lý thuyết nêu trên là cơ sở để tác giả luận án xây dựng những yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nước ngoài vào vùng kinh tế của quốc gia.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Công ty luật LVN Group