Nghị quyết 42/2017/QH2014 quy định khi xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải bảo đảm 4 nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Nghị quyết này. Cụ thể như sau:

– Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

– Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.

– Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu.

– Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

 

1. Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng,…

Nghị quyết đã quy định các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được mua khoản nợ xấu đang hoạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của tổ chức tín dụng liên doanh và tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, được chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá thị trường theo sự hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân, bao gồm cả doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ; được thỏa thuận với tổ chức tín dụng mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập; xử lý, bán, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu này sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý.  Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu phải thống nhất với tổ chức tín dụng lựa chọ tổ chức định giá độc lập.

Bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo đầy đủ giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đẻ xử lý theo thỏa thuận hợp đồng bảo đảm hoặc theo văn bản khác và quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Ngoài ra, Nghị quyết cũng đã Quy định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án; quy định việc mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; quy định việc cử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản; việc kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên; hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự; chuyển nhượng tài sản bảo đảm; phân bổ lãi dự thu, chênh lệch khi bán khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; quy định về áp dụng pháp luật, điều khoản chuyển tiếp.

 

2. Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền

Đưa ra nguyên tắc này nhằm tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng cái hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; giảm số lượng tổ chức tín dụng yếu kém để có số lượng các tổ chức tín dụng phù hợp, có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản. Trong đó giải pháp chung cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016- 2020 gồm:

– Hoàn thiện khuân khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

– Nâng cao năng lực tài chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị điều hành của các tổ chức tín dụng

– Tăng cường đổi mới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.

– Đưa ra các giải pháp hỗ trợ.

Nghị quyết nêu rõ đổi mới công tác thanh tra theo hướng tăng cường thanh tra toàn diện, pháp nhân tổ chức tín dụng, phù hợp với thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng; kết hợp với thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng, đối tượng giám sát ngân hàng, tiến tới áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro theo các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính và cho thuê tài chính để lành mạnh hóa, nâng cao nâng cao năng lực tài chính cả về quy mô và chất lượng, hiệu quả, bảo đảm an toàn hệ thống; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, công khai, minh bạch, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực về quản trị và an toàn hoạt động ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế.Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Ngân hàng Hợp tác xã trong điều hòa vốn, kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ khoản vay của khách hàng; hướng dẫn, đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, công nghệ thông tin, hỗ trợ hoạt động ngân hàng đối với quỹ tín dụng nhân dân thành viên; tham gia xử lý đối với quỹ tín dụng nhân dân thành viên gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động.Tiếp tục chấn chỉnh, củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả của quỹ tín dụng nhân dân hiện có đi đôi với mở rộng vững chắc các quỹ tín dụng nhân dân mới ở khu vực nông thôn; phạm vi hoạt động chủ yếu của quỹ tín dụng nhân dân là huy động vốn và cho vay các thành viên trên địa bàn, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nhằm huy động các nguồn lực tại chỗ để góp phần phát triển kinh tế địa phương, xóa đói, giảm nghèo và đẩy lùi cho vay nặng lãi; bảo đảm quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động và nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên.

Khách hàng vay phải tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị, tăng cường ứng dụng công nghệ và khả năng cạnh tranh; chủ động, tích cực phối hợp với tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai các phương án cơ cấu lại nợ, tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh; chủ động phát triển thị trường tiêu thụ hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu; tham gia tích cực vào các chương trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp do Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương triển khai.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện giải pháp về cơ chế, chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; đồng thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường, giảm lượng hàng tồn kho, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước; phát triển thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường công tác thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện các quy định về cấp tín dụng, an toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh công tác về quản lý, thanh tra, giám sát trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và doanh nghiệp nhà nước. VAMC tập trung triển khai rà soát, phân loại, đánh giá lại các khách hàng vay, tài sản bảo đảm và các khoản nợ đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ và có giải pháp xử lý phù hợp; triển khai mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp mua, bán, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường; tăng cường phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng trong việc thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, bán và xử lý nợ, tài sản bảo đảm đối với các khoản nợ xấu đã mua; hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay phục hồi sản xuất kinh doanh, hoàn thiện các dự án dở dang; tăng cường năng lực định giá, đánh giá tài sản; thường xuyên, kịp thời công khai hoạt động mua, bán và xử lý nợ xấu; phối hợp với các đơn vị liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động.

Bên cạnh đó là giải pháp về khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm; phát triển thị trường mua bán nợ; giải pháp về mua nợ xấu theo giá trị thị trường và nâng cao năng lực tài chính của VAMC; giải pháp xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước trung ương, địa phương và nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh.

 

3. Nguyên tắc không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu

3.1 Như thế nào là dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu

Theo nhận định của giới chuyên gia kinh tế, nợ xấu nếu không được xử lý nhanh sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, thậm chí cái giá phải trả còn lớn hơn rất nhiều. Có ý kiến cho rằng, nếu không dùng Ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu thì rất khó khơi thông được dòng tài chính đang bị tắc nghẽn và tình trạng này sẽ còn kéo dài trong 5-7 năm tới.

Thời gian qua, điều kiện Ngân sách nhà nước còn rất khó khăn, việc xử lý nợ xấu không sử dụng trực tiếp từ nguồn Ngân sách nhà nước mà được thực hiện thông qua các biện pháp như trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro, tăng cường thu hồi nợ, bán, phát mại tài sản bảo đảm thu hồi nợ, chuyển nợ xấu thành vốn góp, thành lập VAMC (chẳng hạn như cấp 2.000 tỷ đồng cho VAMC hoạt động) để mua nợ xấu của các TCTD bằng trái phiếu đặc biệt VAMC, TCTD sử dụng trái phiếu này để vay tái cấp vốn của NHNN.

Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu ngành Ngân hàng đã được đưa xuống dưới 3%. Đến cuối tháng 6/2016, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống là 2,58%, giảm so với mức 2,78% vào tháng 5/2016 nhưng vẫn cao hơn mức 2,55% vào cuối năm 2015. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2016 con số nợ xấu được xử lý là khoảng 59,71 nghìn tỷ đồng.

Cần phải hiểu rằng, sử dụng NSNN để xử lý nợ xấu là cách dùng tiền Chính phủ để mua các khoản nợ xấu từ các ngân hàng với giá trị thị trường, sau đó có thể tiếp tục bán cho các nhà đầu tư, rồi lấy tiền trả lại cho Chính phủ và không có chuyện Chính phủ trả thay cho các “con nợ”.

Thực tế hiện nay vẫn còn rất nhiều người hiểu lầm rằng, sử dụng tiền NSNN để xử lý nợ có nghĩa là Chính phủ đứng ra trả nợ thay cho các doanh nghiệp hay cá nhân đã nợ ngân hàng và nay mất khả năng trả nợ. Cách hiểu này có phần khiên cưỡng và thiếu thực tế, bởi không một Chính phủ nào đi trả nợ thay cho con nợ của mình, trừ trường hợp đó là doanh nghiệp của Chính phủ nợ ngân hàng.

Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, đây không phải là phương án NSNN bỏ tiền ra để xóa nợ cho người vay tiền, mà có thể coi như loại tín dụng Nhà nước ứng vốn để xử lý nợ xấu. Sau này ngân sách thu hồi thông qua việc bán tài sản đảm bảo để lấy nguồn tái tụng. Nhìn ra hầu hết các nước trên thế giới, NSNN là nguồn tài chính quan trọng để xử lý nợ xấu của nền kinh tế. Nhiều chuyên gia đưa ra minh chứng khi cho rằng, trên thế giới chưa có nước nào xử lý nợ xấu triệt để mà không dùng NSNN.

Cụ thể: Trong giai đoạn khủng hoảng ngành ngân hàng, Chính phủ Mỹ đã bơm hàng nghìn tỷ USD vào ngân hàng để xử lý nợ xấu. Kết quả là Chính phủ Mỹ thu lại được toàn bộ số tiền bơm vào ngân hàng, mà còn có lãi. Nói cách khác, đây là cách để Chính phủ đầu tư, kinh doanh, chứ không phải là “cứu” ai hay “lấy của ai chia cho ai”. Theo một số chuyên gia kinh tế, với cách mua nợ bằng tờ giấy như vừa qua, VAMC chỉ giống như một bãi đáp tạm thời cho nợ xấu, chứ chưa hẳn là đã xử lý triệt để nợ xấu.

Mặc dù phản đối song một số chuyên gia cũng phải thừa nhận rằng, trong một số trường hợp bắt buộc cũng phải sử dụng tới NSNN để xử lý, đặc biệt đối với các trường hợp phục vụ quốc phòng, an sinh xã hội… Tuy nhiên, phải phân loại nợ nào do Chính phủ bảo lãnh, nợ nào vì an sinh xã hội, nợ nào do doanh nghiệp để xử lý.

Tức là, nếu nợ xấu do doanh nghiệp tự kinh doanh, tự gây lên thì doanh nghiệp sẽ phải tự xử lý. Còn nếu là các khoản nợ xấu do ngân hàng cho vay theo chỉ đạo, do Chính phủ bảo lãnh, hoặc vì mục đích an sinh, xã hội có thể Chính phủ sử dụng tới ngân sách để xóa nợ cho ngân hàng.

 

3.2 Tính hai mặt của việc sử dụng Ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu

Chúng ta cần nhận thức rằng, nguồn lực từ NSNN để xử lý nợ xấu không đồng nghĩa với việc chuyển tiền cho các TCTD để bù các khoản thiếu hụt trong quá trình xử lý nợ xấu cũng không phải “cho không” VAMC để mua nợ xấu mà NSNN ứng ra và sẽ thu về sau khi VAMC xử lý được nợ xấu. VAMC dùng tiền NSNN mua nợ theo giá thị trường, rồi bán nó hoặc bán tài sản bảo đảm để thu hồi vốn.

Nếu khoản nợ xấu bán thấp hơn giá mua, ngân sách sẽ bị lỗ phần thiếu hụt. Ngược lại, nếu bán cao hơn giá mua, ngân sách sẽ thu lợi. Như vậy, ngân sách sẽ được bảo toàn hoặc có thể bị thiếu hụt một phần sau khi VAMC hoàn thành cơ bản sứ mệnh xử lý nợ xấu. Theo các chuyên gia, cái lợi lớn nhất ở đây là thế giới thấy được Việt Nam quan tâm đúng mức về xử lý nợ xấu.

Theo các chuyên gia, nếu cứ phó mặc cho TCTD tự trích lập dự phòng rủi ro tín dụng để xử lý nợ xấu thì về lâu dài chưa hẳn đã có lợi. Để trích lập dự phòng rủi ro đúng quy định, ngân hàng chỉ tiết giảm chi phí để tăng thu nhập là chưa đủ, mà phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh theo hướng giảm lãi suất huy động, tăng lãi suất cho vay để gia tăng thu nhập.

Điều này khiến doanh nghiệp vay tiền khó tiếp nhận vốn để mở rộng sản xuất, kéo theo thu NSNN bị hạn chế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung theo đó cũng bị suy giảm. Ngoài ra, vốn NSNN tham gia xử lý nợ xấu sẽ góp phần giúp ngành Ngân hàng vượt qua khó khăn. Điều quan trọng lúc này là nền kinh tế đạng dựa khá nhiều vào vốn ngân hàng hàng, cho nên nếu không có giải pháp cải thiện tình hình nợ xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, NSNN tham gia xử lý nợ xấu sẽ có lợi cho người gửi tiền, vay tiền và nền kinh tế.

Trên bình diện khác, việc sử dụng NSNN để xử lý nợ xấu vẫn gây ra nhiều lo ngại trong bối cảnh NSNN thường xuyên thiếu hụt, việc tạo thêm một khoản mục ứng tiền cho xử lý nợ xấu là một áp lực cho Chính phủ, các bộ, ngành… Việc huy động vốn NSNN để xử lý nợ xấu sẽ tăng nợ công của Chính phủ, trong khi đó nợ công lại đang sắp đạt ngưỡng giới hạn…

 

3.3 Lý do không sử dụng Ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu

Nếu có nguồn tài chính hỗ trợ từ Nhà nước không phải là không đem lại lợi ích mà chắc chắn xử lý sẽ nhanh hơn, nhưng trong bối cảnh ngân sách nhà nước (NSNN) khó khăn, nợ công căng thẳng, thì việc đưa ra nguyên tắc này là hoàn toàn có lý do. Theo các chuyên gia, không thể lấy NSNN để xử lý nợ xấu trong thời điểm này vì ngân sách còn phải cân đối để sử dụng vào nhiều lĩnh vực cần kíp và quan trọng hơn.

Bên cạnh đó, việc này cũng sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước và tạo ra tiền lệ xấu cho các DNNN tức là tâm lý ỷ lại, cứ thua lỗ, nợ nần lại được Nhà nước cứu trợ. Vì vậy có thể nói, dùng NSNN để xử lý nợ xấu là nguyên tắc hợp lý trong bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay.

 

4. Nguyên tắc chịu trách nhiệm nếu có hành vi vi phạm pháp luật

Về việc đưa ra nguyên tắc này, các chuyên gia nhận xét, Nghị quyết của Quốc hội đã đưa ra phương hướng quan trọng giúp hệ thống ngân hàng xử lý nợ xấu, đặc biệt là việc xử lý tài sản đảm bảo.Các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu sẽ được phép bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu với giá bán phù hợp giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Quy định này được xem là “cởi trói” cho các cá nhân, tổ chức xử lý nợ xấu trước áp lực khi bán nợ giá thấp sẽ làm thất thoát tài sản của tổ chức và cá nhân khác. Hơn nữa còn giúp hình thành thị trường mua bán nợ, cho phép các tổ chức tín dụng, VAMC bán các khoản nợ xấu và các tài sản đảm bảo khoản nợ theo giá thị trường và theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Nghị quyết của Quốc hội còn giúp đảm bảo quyền lợi của chủ nợ, đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền của người gửi tiền.

Ở đây phải rõ ràng là những cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xử lý nợ xấu đã thực hiện đúng với phương án được duyệt, thì chắc chắn sẽ không phải chịu trách nhiệm với kết quả thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra. Trách nhiệm pháp lý được loại trừ khi phương án xử lý nợ xấu được duyệt tiến hành một cách công khai, minh bạch và không vụ lợi. Tuy nhiên, cơ quan, tổ chức hay cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình xử lý nợ xấu vẫn bị xem xét trách nhiệm.