Tống đạt là việc chuyển giao các tài liệu pháp lý cho một bên cần phản hồi trong thời gian nhất định. Tuỳ thuộc vào tính chất, mục đích sử dụng cũng như mô hình TTDS của mỗi quốc gia lại đòi hỏi các phương thức cấp,tống đạt, thông báo VBTTDS khác nhau sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật mỗi nước
1. Khái quát chung
Tống đạt là việc chuyển giao các tài liệu pháp lý cho một bên cần phản hồi trong thời gian nhất định. Tuỳ thuộc vào tính chất, mục đích sử dụng cũng như mô hình TTDS của mỗi quốc gia lại đòi hỏi các phương thức cấp,tống đạt, thông báo VBTTDS khác nhau sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật mỗi nước. Nhưng nhìn chung trên thế giới tồn tại năm phương thức cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS chính. Đó là: tống đạt trực tiếp, tống đạt thay thế, tống đạt qua dịch vụ bưu chính, tống đạt bằng cách công bố công khai, tống đạt bằng phương tiện điện tử và mạng xã hội.
2. Tống đạt trực tiếp
Bản chất của phương thức này là giao tận tay cho người nhận văn bản, thông thường là nhà hoặc nơi làm việc của họ. Nhìn chung, người tiếp nhận văn bản thường sẵn sàng nhận các tài liệu được tống đạt, tuy nhiên cũng có không ít trường hợp người tiếp nhận cố tình trốn tránh, không nhận. Trong trường hợp này, chủ thể tống đạt có thể trực tiếp đến tại địa chỉ nhà của cá nhân đó để thực hiện tống đạt giấy tờ, tài liệu. Tòa án thường lựa chọn phương pháp này hơn là các phương pháp khác bởi nó là cách đảm bảo chắc chắn nhất để đưa ra thông báo.
Ở Mỹ, có ba phương pháp tống đạt chính được cho phép đó là: tống đạt cá nhân, tống đạt thay thế (qua người khác) và tống đạt bằng việc công bố công khai (hay còn gọi là phương pháp xuất bản). Tống đạt cá nhân hoặc chuyển giao tận tay luôn được ưu tiên hơn vì nó được xem như là phương pháp chính xác nhất. Tống đạt thay thế được sử dụng khi không thể liên lạc trực tiếp được với bị đơn. Tống đạt công khai chỉ được sử dụng như là một phương sách cuối cùng vì nó không đáng tin cậy. Mỗi tiểu bang ở Mỹ có quy tắc tố tụng dân sự riêng quy định chi tiết cách thức chuyển giao tài liệu. Trong bối cảnh tống đạt thông báo về vụ kiện, thủ tục này được hiểu là mọi người phải được thông báo về vụ kiện, được biết về những quan điểm chống lại họ và tạo cho họ một cơ hội để được lắng nghe. Vì vậy, để đánh giá tính hợp pháp của việc tống đạt, tòa án đánh giá liệu phương pháp tống đạt được sử dụng có thực sự hợp lý và liệu nó có tuân thủ các yêu cầu theo luật định hay không. Nếu việc tống đạt được cho phép theo luật định, tòa án sử dụng các quy tắc tố tụng dân sự của liên bang và tiểu bang, sau đó xác định đầy đủ các thủ tục, trình tự thực hiện trong mỗi trường hợp. Đối với các vụ kiện tại Tòa án liên bang, Quy tắc số 4 Bộ Quy tắc tố tụng dân sự liên bang quy định các phương pháp tống đạt truyền thống đối với bị đơn ở trong nước, bao gồm tống đạt cá nhân, chuyển giấy tờ, tài liệu đến nơi ở của bị đơn hoặc giao cho đại diện của bị đơn. Nếu nếu việc tống đạt vẫn không thể thực hiện được theo các phương pháp truyền thống này, Quy tắc 4 cũng cho phép tống đạt theo phương thức do pháp luật tiểu bang nơi vụ kiện diễn ra quy định.
Phương pháp tống đạt cơ bản và lâu đời nhất là tống đạt cá nhân. Trước khi các quy tắc tố tụng dân sự liên bang được thông qua, Tòa án tối cao Hoa Kỳ năm 1877 đã quyết định trong vụ Pennoyer v. Nef (Pennoyer v. Neff, 95 US 714, 1878), rằng Tòa án áp dụng thẩm quyền đối với một bên nếu bên đó được tống đạt đơn khởi kiện trong khi hiện diện tại tiểu bang. Tòa án tối cao phán quyết rằng: để tòa án có thẩm quyền xét xử đối với bị đơn thì bị đơn phải được tống đạt đơn khởi kiện trực tiếp. Tại thời điểm xảy ra vụ Pennoyer, hầu như tất cả các thông tin liên lạc, chính thức và không chính thức đều được thực hiện một cách trực tiếp. Báo chí đã tồn tại nhưng chỉ đưa các đoạn thông tin ngắn gọn. Hệ thống bưu điện đã hoạt động nhưng chậm và đắt đỏ. Điện báo đã có sẵn nhưng mới xuất hiện trong thời gian này. Không có phương pháp hợp lý nào khác có thể được sử dụng để thực hiện quá trình tống đạt. Bối cảnh lịch sử này lý giải tại sao Tòa án tối cao kiên quyết rằng việc tống đạt phải được thực hiện trực tiếp.
Hiện nay, Quy tắc 4 (e) của FRCP (Federal Rules of Civil Procedure) – quy tắc thủ tục TTDS liên bang chứa đựng các phương pháp tống đạt truyền thống mà theo đó bị đơn trong nước có thể được tống đạt thông qua hình thức tống đạt cá nhân, chuyển đến nơi ở của cá nhân được chấp nhận bởi một người có độ tuổi phù hợp, và chuyển cho người đại diện được ủy quyền để chấp nhận tống đạt. FRCP đã thay đổi theo thời gian, thậm chí tại một thời điểm bao gồm tống đạt bằng thư được chứng nhận là phương tiện có thể chấp nhận được. Trong một số trường hợp, các phương pháp truyền thống không hiệu quả. Các tòa án sau đó xem xét xem liệu dịch vụ có thể được thực hiện thông qua một phương pháp “thay thế”, chủ yếu theo luật tiểu bang nơi diễn ra hành động. Ở Louisiana, luật tiểu bang cho phép tống đạt cá nhân và tống đạt tại nhà đối với tất cả các văn bản tố tụng thông thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chẳng hạn như sự thay thế các bên trong một số trường hợp nhất định, tống đạt theo phương thức công bố công khai được cho phép.
Tại Nga, giấy gọi của Toà án được tống đạt trực tiếp cho đương sự với việc trả lại cuống biên lai có chữ ký của người được tống đạt. Đối với tổ chức thì Toà án tống đạt cho người có chức vụ, sau đó người này ký nhận vào cuống biên lai của văn bản. Trong trường hợp người chuyển giấy gọi không gặp người được toà án triệu tập ở nơi người đó sinh sống, giấy gọi được trao cho một trong những thành viên là người thành niên của gia đình nếu người đó đồng ý tống đạt cho người được Toà án triệu tập. Trong trường hợp người được Toà án triệu tập vắng mặt tạm thời, người chuyển giấy gọi của Toà án ghi rõ nơi đến của người được tống đạt, và thời gian người đó quay trở lại trong cuống biên lai của giấy gọi. Trong trường hợp không rõ nơi cư trú của người được toà án triệu tập thì điều này phải được ghi nhận trên tờ giấy gọi, đồng thời chỉ rõ ngày, thời gian ghi nhận và nguồn thông tin về điều này (Điều 116 BLTTDS Liên Bang Nga). Nếu người được tống đạt từ chối tiếp nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án thì người chuyển đánh dấu trên tờ giấy báo hoặc giấy gọi và trả lại Toà án. Trong trường hợp từ chối tiếp nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án, người được tống đạt coi như đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng. Về cơ bản, phương thức tống đạt này có đặc điểm gần giống với phương thức tống đạt trực tiếp trong PLTTDS Việt Nam, việc tống đạt cho cá nhân hay tổ chức trong các trường hợp phải có sự xác nhận của người thực hiện tống đạt để làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự, pháp luật Nga cũng đưa ra quy định thế nào thì được coi là tống đạt hợp lệ tuy nhiên chưa bao quát được trong các trường hợp ví dụ như việc tống đạt thông qua người thứ ba – người thành niên của gia đình, pháp luật không quy định việc người này phải ký xác nhận về việc đã nhận VBTT và có trách nhiệm chuyển giao văn bản hay không. Ngoài ra đối với trường hợp đương sự từ chối tiếp nhận thì Toà án không yêu cầu phải nêu rõ lý do, người được tống đạt coi như đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thời gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng, điều này là chưa thực sự phù hợp và không có cơ sở rõ ràng.
3. Tống đạt thay thế
Ở Mỹ, nếu tống đạt trực tiếp cho cá nhân không khả thi hoặc không hiệu quả, tòa án một số khu vực cho phép chủ thể thực hiện chuyển giao tài liệu theo các phương pháp khác. Một lựa chọn có thể là giao các giấy tờ cho một người thành niên hợp pháp, người này phải hiểu được trách nhiệm của việc nhận giấy tờ. Chủ thể tống đạt cũng được phép giao các tài liệu đến nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn, sau đó gửi kèm một bản sao đến địa chỉ của họ. Một số tòa án khu vực cho phép chủ thể thực hiện gửi các giấy tờ đơn giản bằng cách sử dụng hộp thư đã đăng ký. Các tòa án khu vực khác nhau cho phép thực hiện các phương pháp tống đạt khác nhau, vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra các quy định của pháp luật trước khi tiến hành tống đạt thay thế.
Ở Đức, việc tống đạt có thể được thực hiện thông qua Luật sư của LVN Group sau đó Luật sư của LVN Group xác nhận về việc đã nhận văn bản (Điều 174 BLTTDS của Đức). Việc tống đạt cũng có thể được thực hiện giữa các Luật sư của LVN Group với nhau. Trường hợp Luật sư của LVN Group của các bên sư phải thực hiện tống đạt một tài liệu cho đồng nghiệp của mình (Điều 671 đến 673 BLTTDS của Đức). Điều này thường diễn ra tại Tòa án theo một trong hai cách: tống đạt chính thức – yêu cầu sự can thiệp của một người được ủy quyền đóng dấu và chữ ký trên tài liệu và bản sao hoặc tống đạt trực tiếp – được thực hiện bằng cách giao hai bản sao của tài liệu cho Luật sư của LVN Group mà người đó tham gia giải quyết vụ án dân sự, sau đó gửi lại để Toà án xem xét, lưu hồ sơ.
Tại BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga có quy định việc chuyển VBTTDS (gồm giấy gọi và giấy báo) có thể được thực hiện thông qua người được Toà án uỷ nhiệm. Theo đó, nếu được người tham gia tố tụng đồng ý, thẩm phán có thể trao giấy gọi hoặc giấy báo của Toà án cho người đó để tống đạt cho người được thông báo hoặc người được triệu tập. Người được Toà án uỷ nhiệm chuyển giấy gọi hoặc giấy báo có nghĩa vụ gửi lại Toà án cuống biên lai của giấy gọi hoặc bản sao giấy báo có chữ ký xác nhận của người được tống đạt (khoản 2 Điều 115).
4. Tống đạt qua dịch vụ bưu chính
Ở Đức, việc tống đạt VBTT có thể được thực hiện thông qua dịch vụ bưu chính. Thuật ngữ “dịch vụ bưu chính” có nghĩa là các công ty được Cơ quan mạng Liên bang (Bundesnetzagentur) cấp phép cung cấp dịch vụ bưu chính.
Theo pháp luật TTDS của Pháp, phương thức này được thực hiện bằng cách sử dụng một phong bì có niêm phong hoặc thư (Điều 667 của BLTTDS Pháp). Nhân viên bưu điện khi thực hiện chuyển giao tài liệu, giấy tờ phải ký nhận hoặc ghi vào giấy biên nhận. Trên phong bì hoặc thư phải có đầy đủ các thông tin liên quan đến người nhận và người gửi. Đối với người gửi phải ghi rõ họ tên hoặc công ty hoặc tên doanh nghiệp cũng như văn phòng đăng ký hoặc nơi cư trú của người này. Người nhận phải là người được chỉ định cụ thể (Điều 665). Tất cả những chi tiết này là yêu cầu bắt buộc nếu không việc tống đạt sẽ trở nên vô hiệu (Điều 693).
Trường hợp người nhận là cá nhân, việc tống đạt được thực hiện tại nơi cư trú của người đó hoặc ở bất kỳ nơi nào khác nếu được yêu cầu hoặc ngay tại địa chỉ tống đạt nếu được chấp nhận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu người có liên quan là pháp nhân, việc tống đạt được thực hiện tại địa điểm kinh doanh của cơ quan, tổ chức đó hoặc tống đạt trực tiếp cho một nhân viên của cơ quan, tổ chức – người có chức năng hoặc được phép nhận các VBTT đó. Đối với người thực hiện tống đạt, việc tống đạt được coi là hoàn thành kể từ khi thư được gửi đi, ngày gửi được hiển thị trên tem của văn phòng bưu chính nơi gửi. Đối với người được tống đạt, ngày được tống đạt thành công là ngày nhận được thư. Trong trường hợp thư đã đăng ký có xác nhận về việc đã nhận, ngày hoàn thành việc tống đạt là ngày tương ứng với thư được chuyển cho người nhận và có xác nhận của cơ quan bưu chính. Ở đây, có thể hiểu rằng việc tống đạt qua dịch vụ bưu chính bao gồm hai hình thức gần giống với hình thức gửi thư tại Việt Nam, đó là gửi thường và gửi bảo đảm.
Một số quốc gia khác như Nga cũng sử dụng phương pháp tống đạt thông qua dịch vụ bưu chính để chuyển giao VBTTDS cho đương sự. Điều 115 BLTTDS năm 2003 của Liên Bang Nga quy định: “Giấy gọi và giấy báo của Toà án được chuyển theo bưu điện hoặc thông qua người được Toà án uỷ nhiệm. Thời hạn tống đạt giấy báo cho người nhận được xác định theo cách thức của cơ quan bưu điện hoặc dựa trên giấy báo lại cho Toà án”.
5. Tống đạt công khai (tống đạt bằng việc xuất bản)
Đây được coi là phương sách cuối cùng bởi nó là phương án không hiệu quả nhất và ít có khả năng nhất trong việc truyền đạt văn bản tố tụng tới được bị đơn. Chủ thể thực hiện có thể công bố thông báo trên một tờ báo được phát hành ở địa điểm có khả năng là địa chỉ của bị đơn hoặc vị trí của Tòa án, hoặc cả hai. Ở Mỹ, hầu hết các tòa án khu vực yêu cầu thông báo phải được công bố trong nhiều tuần để đảm bảo khả năng bị đơn thấy được thông báo. Bởi vì hầu hết các bị đơn sẽ không bao giờ đọc báo. Phương pháp này chỉ được phép áp dụng khi không còn cách nào khác để liên lạc với bị đơn. Nó không chỉ tốn kém tiền bạc mà còn không đáng tin cậy bởi sau này bị đơn có thể tuyên bố rằng họ đáng lẽ đã có thể được tống đạt trực tiếp với tư cách cá nhân (không đại diện bởi người khác).
Năm 1950, quyết định của Tòa án Tối cao trong vụ án Mullane và Ngân hàng Trung ương Hannover & Trust Co. cho thấy nước Mỹ có sự thay đổi mạnh mẽ. Toà án chấp thuận việc xuất bản như một phương tiện thông báo được cho phép theo Hiến pháp khi không có phương pháp hợp lý nào khác có thể được sử dụng và khi nơi của những người được thông báo là không rõ ràng. Theo phán quyết trong vụ Mullane, công nghệ và tống đạt tiếp tục phát triển. Tòa án đã đưa ra quyết định cho phép các phương pháp tống đạt thay thế phù hợp với với sự phát triển của công nghệ. Đáng chú ý là các phương pháp này đã không thay thế các phương thức dịch vụ truyền thống nhưng được sử dụng như một phương sách cuối cùng khi các nỗ lực đã được thực hiện để xác định nơi ở của bị đơn.
6. Tống đạt thông qua mạng xã hội truyền thông và phương tiện điện tử
Không thể phủ nhận rằng, những tiến bộ khoa học công nghệ đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới cho việc áp dụng các phương pháp tống đạt VBTTDS. Đôi khi nguyên đơn phải cố gắng thực hiện việc tống đạt thông qua nhiều hình thức, phương tiện khác nhau sao cho phù hợp, đặc biệt trong trường hợp người bị kiện cố tình trốn tránh hoặc không có địa chỉ thường trú rõ ràng. Thông thường trong trường hợp này khó có thể tống đạt trực tiếp cho cá nhân. Do đó đòi hỏi cần có một giải pháp lý tưởng thông qua việc ứng dụng các công nghệ tiến bộ để giải quyết vấn đề. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy một số phương pháp tống đạt thông qua phương tiện điện tử hay mạng xã hội truyền thông được các nước trên thế giới chấp nhận và sử dụng, thậm chí được coi là án lệ trở thành khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự về sau phải kể đến các phương pháp đó là:
7. Tống đạt bằng phương tiện điện tử
Sự ra đời của các công nghệ mới trong hệ thống tư pháp đã dẫn đến sự thay đổi của các điều khoản và điều kiện cho việc tống đạt chính thức bằng phương tiện điện tử. Điều 748-1 của Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định việc gửi, giao tống đạt các thủ tục tố tụng, giấy tờ, thông báo, cảnh báo hoặc triệu tập, báo cáo, báo cáo chính thức và bản sao, bản gốc giấy tờ tài liệu để thi hành bản án có thể được thực hiện bằng phương thức điện tử.
Quá trình tống đạt VBTT giữa các Luật sư của LVN Group cũng có thể được thực hiện thông qua mạng xã hội dành riêng cho Luật sư (Réseau Privé Virtuel Avocats, RPVA), phương tiện này cũng được sử dụng để tiến hành trao đổi thủ tục giữa Luật sư của LVN Group và tòa án. Ngoài ra, trong các trường hợp và điều kiện được xác định rõ ràng, một số tài liệu có nguồn gốc từ cơ quan đăng ký (như thông báo về phiên họp của tòa án, giấy triệu tập…) có thể được gửi tới một bên bằng e- mail (Điều 748-8 và 748-9 của BLTTDS Pháp). Trong mọi trường hợp, người nhận tài liệu phải đồng ý rõ ràng việc sử dụng các phương tiện giao tiếp điện tử.
8. Tống đạt qua email
Có thể nói, sự ra đời của Internet đã mở rộng đáng kể việc sử dụng e- mail, nó cho phép mọi người có thể truy cập vào công nghệ mới này một cách dễ dàng. Người dùng có thể “Gửi và nhận dữ liệu kỹ thuật số từ một số lượng vô hạn nguồn”. Email nhanh chóng trở thành phương pháp giao tiếp chính và trong năm 2011, số lượng tài khoản e-mail trên toàn thế giới được ước tính vào khoảng 3,1 tỷ. Tại Mỹ, 60 tòa án vào năm 2000 được cho phép thực hiện tống đạt thông qua phương pháp này.
Năm 2000, Tòa án phá sản Hoa Kỳ trong “In re INTERNATIONAL TELEMEDIA ASSOCIATES, INC” giữa nguyên đơn là Herbert C. Broadfoot và bị đơn là Arjuna Diaz, đã cho phép tống đạt một bản sao của Lệnh triệu tập và khiếu nại khi bị đơn ở nước ngoài bằng fax, e-mail và thư đến địa chỉ được biết cuối cùng của bị đơn. Vào thời điểm đó nguyên đơn đã không được tống đạt các văn bản khiếu nại và không được thực hiện bất kỳ sự xuất hiện nào. Bị đơn từ chối cung cấp địa chỉ gửi thư nhưng đã cung cấp một bản fax, số điện thoại, địa chỉ e-mail và nói rằng ông muốn sử dụng chúng trong thư từ tương lai. Trong trường hợp này, tòa án thấy rằng Diaz chỉ đơn giản cung cấp cho người uỷ thác của nguyên đơn một địa chỉ điện tử thay vì địa chỉ bưu điện hay địa chỉ đường phố truyền thống và chỉ ra rằng đây là những phương thức liên lạc ưa thích của anh ta. Vì vậy, người được ủy thác đã yêu cầu ủy quyền thực hiện tống đạt văn bản cho Diaz bằng các phương tiện thay thế đó. Tòa án cũng tuyên bố rằng việc ủy quyền tống đạt bằng e- mail và phương tiện thay thế khác có ít hoặc không có tiền lệ nào. Hơn nữa, tòa án cũng nhận thấy được sự cần thiết phải thích ứng cùng với sự phát triển của công nghệ đang ngày một hiện đại.
Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực thứ chín cũng đã chấp thuận tống đạt qua Internet trong vụ Rio Properties, Inc. Trong vụ Rio, tòa án cho phép tống đạt qua e-mail trong trường hợp bị đơn ở nước ngoài. Nguyên đơn không thể tống đạt cho bị đơn tại Mỹ và không thể tìm thấy địa chỉ thực tế tại Costa Rica. Địa chỉ duy nhất có sẵn là một địa chỉ e-mail, mà bị đơn được chỉ định làm phương pháp liên lạc ưa thích. Tòa án nói rằng tống đạt qua e-mail là phù hợp trong hoàn cảnh này bởi nó “Được tính toán hợp lý để đưa ra thông báo và cơ hội để trả lời”. Hơn nữa, tòa án đã tuyên bố rằng trong trường hợp này tống đạt qua email là phương pháp khả thi nhất để tiếp cận bị đơn vì bị đơn do tính chất kinh doanh của mình chỉ có thể liên lạc qua e-mail. Tuy nhiên đối với e-mail, không có xác nhận rằng giao tiếp điện tử đã thực sự nhận được. Thêm vào đó, sự gia tăng trong số lượng e-mail được gửi và nhận mỗi ngày đã chậm lại do sự phát triển của các hình thức giao tiếp khác, đặc biệt là sự xuất hiện của nhiều mạng xã hội. Trên thực tế, việc ứng dụng những ưu thế của truyền thông xã hội là cần thiết, góp phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và tăng tiềm năng của nó như một công cụ hữu ích cho hệ thống pháp luật.
Bên cạnh email, ngày nay máy fax vẫn được sử dụng nhưng không nhiều do sự phát triển của khoa học công nghệ. Có thể nói việc sử dụng email trở nên đáng tin cậy hơn so với truyền fax trong nhiều trường hợp bởi khi một tài liệu được gửi qua fax, không có cách nào để xác nhận những người thực sự nhận được fax và thời điểm chính xác nó đã được nhận vì một biên nhận fax chỉ xác nhận rằng tài liệu đã được gửi.