1. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) – Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995. 

Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan – GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư). Tính đến ngày 26/6/2014, tổ chức này có 160 thành viên. Thành viên của WTO là các quốc gia (ví dụ Hoa Kỳ, Việt Nam…) hoặc các vùng lãnh thổ tự trị về quan hệ ngoại thương (ví dụ EU, Đài Loan, Hồng Kông…).

Về cơ cấu tổ chức của WTO bao gồm (xếp theo thứ tự thẩm quyền từ cao xuống thấp):

– Hội nghị Bộ trưởng: Bao gồm các Bộ trưởng thương mại – kinh tế đại diện cho tất cả các nước thành viên; Họp 2 năm 1 lần để quyết định các vấn đề quan trọng của WTO;

– Đại hội đồng: Bao gồm đại diện tất cả các thành viên; thực hiện chức năng của Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng giữa hai kỳ hội nghị của cơ quan này; Đại hội đồng cũng đóng vai trò là Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát các chính sách thương mại;

– Các Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Các vấn đề Sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại; Các Uỷ ban, Nhóm công tác: Là các cơ quan được thành lập để hỗ trợ hoạt động của Đại hội đồng trong từng lĩnh vực; tất cả các thành viên WTO đều có thể cử đại diện tham gia các cơ quan này;

– Ban Thư ký: Ban Thư ký bao gồm Tổng Giám đốc WTO, 03 Phó Tổng Giám đốc và các Vụ, Ban giúp việc với khoảng 500 nhân viên, làm việc độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ chính phủ nào.

Về cơ bản, các quyết định trong WTO được thông qua bằng cơ chế đồng thuận. Có nghĩa là chỉ khi không một nước nào bỏ phiếu chống thì một quyết định hay quy định mới được xem là “được thông qua”.

Do đó hầu hết các quy định, nguyên tắc hay luật lệ trong WTO đều là “hợp đồng” giữa các thành viên, tức là họ tự nguyện chấp thuận chứ không phải bị áp đặt; và WTO không phải là một thiết chế đứng trên các quốc gia thành viên.

 

2. Công ước EFTA

Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, được gọi đơn giản là EFTA, bao gồm bốn quốc gia thành viên: Na Uy, Thụy Sĩ, Liechtenstein và Iceland. Ngôn ngữ chính thức của EFTA là tiếng Anh, được sử dụng trong các cuộc họp và các tài liệu quản lý, mặc dù có tổng cộng 7 ngôn ngữ chính thức được các quốc gia thành viên sử dụng. EFTA có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.

EFTA được thành lập vào tháng 1 năm 1960, thông qua việc ký kết thỏa thuận thương mại tại Công ước Stockholm được tổ chức tại Cung điện Hoàng tử ở Stockholm, Thụy Điển. Các thành viên sáng lập của EFTA là: Na Uy, Vương quốc Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha và Đan Mạch. Thành lập của nó là để đáp trả việc loại bỏ các thành viên sáng lập khỏi Cộng đồng kinh tế châu Âu, sau này phát triển thành Liên minh châu Âu ngày nay. Một trong những lợi ích đầu tiên được thiết lập bởi EFTA là loại bỏ hải quan hoặc thuế đối với hàng hóa công nghiệp. Việc xóa này không phải là ngay lập tức, mà là diễn ra theo một mốc thời gian được chỉ định.

Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA) được thành lập theo Công ước được ký kết tại Stockholm vào ngày 4 tháng 1 năm 1960. Mục tiêu chính của Hiệp hội là tự do hóa thương mại giữa các Quốc gia thành viên, và Công ước do đó bao gồm các quy tắc cơ bản liên quan đến thương mại tự do hàng hóa và các kỷ luật. 

Vào năm 1990, EFTA thiết lập chính sách dành cho nước thứ ba để phản ánh cách tiếp cận quan hệ kinh tế đối ngoại của Liên minh Châu Âu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Kể từ đó, EFTA đã thiết lập một mạng lưới quan hệ thương mại tự do theo hợp đồng rộng khắp trên toàn thế giới. Các nước thành viên EFTA cũng phát triển quan hệ thương mại chặt chẽ với EU, thể hiện trong Hiệp định EEA (1994) và các hiệp định song phương EU-Thụy Sĩ (1999). Những phát triển này đã thúc đẩy các Quốc gia EFTA hiện đại hóa Công ước của họ vào cuối những năm 1990 để phản ánh mức độ gia tăng tham vọng trong tự do hóa thương mại.

Công ước EFTA cập nhật, Công ước Vaduz, được ký kết vào ngày 21 tháng 6 năm 2001 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2002, song song với các hiệp định song phương EU-Thụy Sĩ. Nó bao gồm một số thay đổi đáng kể, trong đó quan trọng nhất là sự tích hợp các nguyên tắc và quy tắc được thiết lập giữa EU và các Quốc gia EEA EFTA trong Hiệp định EEA, và giữa EU và Thụy Sĩ trong các hiệp định song phương EU-Thụy Sĩ. Các điều khoản mới quan trọng bao gồm việc di chuyển tự do của con người, thương mại dịch vụ, di chuyển vốn và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. 

Công ước Vaduz bao gồm tất cả các khía cạnh quan trọng của thương mại hiện đại và củng cố đáng kể mối quan hệ giữa các nước EFTA. Công ước sửa đổi đã tăng cường sự gắn kết trong quan hệ kinh tế giữa các Quốc gia Thành viên EFTA và cung cấp một nền tảng chung nâng cao để phát triển quan hệ của họ với các đối tác thương mại trên toàn thế giới.

 

3. Hiệp định thương mại tự do (FTA)

Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement – FTA) là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều Thành viên nhằm loại bỏ các rào cản đối với phần lớn thương mại giữa các Thành viên với nhau. Đó là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương mại đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau. Các rào cản thương mại có thể dưới dạng thuế quan, quota nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan khác như tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ, …

FTA có thể mang nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ Hiệp định Đối tác Kinh tế (Economic Partnership Agreement), Hiệp định thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement)… nhưng bản chất đều là các thỏa thuận hướng tới tự do hóa thương mại giữa các Thành viên. Thành viên của các FTA có thể là các quốc gia (ví dụ Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ…) hoặc các khu vực thuế quan độc lập (ví dụ Liên minh châu Âu, Hong Kong Trung Quốc…). Vì vậy, thông thường khi nói tới Thành viên FTA, người ta hay dùng từ chung là “nền kinh tế”.

Các FTA có thể là song phương (02 Thành viên) hoặc đa phương/khu vực (nhiều hơn 02 Thành viên).
Phạm vi “thương mại” trong các FTA được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm tất cả các hoạt động kinh doanh sinh lời, trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và cả các vấn đề khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thương mại (sở hữu trí tuệ, mua sắm công, lao động, môi trường…).

 

4. Các thủ tục ngoại giao trong WTO

Trong Điều 5 của Bản ghi nhớ của WTO về các Quy tắc và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp (DSU), các hình thức tích cực, hoà giải và thương lượng được sử dụng nếu các bên tranh chấp đồng ý.

Nếu được, thì các thủ tục có thể chấm dứt bất kì lúc nào và chúng cũng có thể tiếp tục khi ban hội thẩm xét xử. Tổng Giám Đốc WTO có thể đưa ra biện pháp giúp đcácỡ tích cực, hoà giải hay thương lượng trên quan điểm giúp đỡ các Thành viên giải quyết tranh chấp.

 

5. Thủ tục ngoại giao trong Công ước EFTA

Một ví dụ về thủ tục tham khảo chính thức và khiếu nại được ghi trong Điều 13, Công ước EFTA năm 1960. Tuy nhiên, nó có những tính chất của thủ tục hoà giải mà nhờ đó, một Hội đồng được ủy quyền để thiết lập các cơ sở nhằm đưa ra những đề nghị không bắt buộc về mặt pháp lý, và từ đó có thể giải quyết tranh chấp.

Hội đồng chính là nơi đưa ra quyết định theo Công ước EFTA, trong đó tất cả các Nhà nước Thành viên đều có mặt.

Các quyết định thường được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu nhất trí. Nếu Nhà nước Thành viên nào cho rằng Công ước, hoặc bất kì mục tiêu nào của Hiệp hội không thoả mãn một lợi ích nào đó của mình thì Nhà nước đó có thể đưa vấn đề này ra Hội đồng, nếu không đạt được cách giải quyết thoả đáng giữa các bên tranh chấp. Hội đồng sẽ xem xét vấn đề, và cũng cân nhắc xem có đúng là nghĩa vụ do Công ước quy định đã không được hoàn thành hay không, và có thể, bằng đa số phiếu, đưa ra những khuyến nghị được coi là thích hợp.

Nếu một Nhà nước Thành viên không tuân thủ khuyến nghị của Hội đồng, thì Hội đồng, với quyết định đa số, có thể ủy quyền cho bất kì Nhà nước Thành viên nào đình chỉ việc áp dụng nghĩa vụ đối với Nhà nước Thành viên có liên quan, theo như Công ước qui định.

Hội đồng có thể, trong trường hợp khẩn cấp và trong chừng mực và thời hạn nào đó, bằng quyết định đa số, cho phép áp dụng một số biện pháp tạm thời nếu Hội đồng thấy thích hợp.

Trong thực tế, mới chỉ có 6 trường hợp được chính thức xem xét theo thủ tục tham khảo trong khuôn khổ EFTA thì trường hợp cuối cùng diễn ra năm 1967. Những vấn đề khác có liên quan đến các biện pháp được viện dẫn lại không phù hợp với Công ước, nên đã được dàn xếp xong một cách không chính thức giữa các Nhà nước Thành viên EFTA.

Ví dụ, một trường hợp khiếu nại được đưa ra theo thủ tục tư vấn chính thức của EFTA là trường hợp khiếu nại ở Na Uy năm 1966, theo đó Anh quốc không nhất trí với biểu thuế quan đối với thực phẩm câ viên chế biến từ fí-lê. Sau khi Hội đồng thảo luận, thì Anh quốc đã thừa nhận biểu thuế đối với mặt hàng này.

 

6. Thủ tục ngoại giao trong các Hiệp định Thương Mại Tự do

Các Hiệp định Thưong Mại Tự Do được ký kết giữa các Nhà nước Thành viên EFTA với Cộng Đồng Châu Âu (EEC) vào đầu thập kỉ 70, không đưa ra bất cứ thủ tục giải quyết tranh chấp chính thức nào. Một uỷ ban Hỗn hợp, bao gồm đại diện của các bên có trách nhiệm đối với công việc hành chính và thực hiện Thoả thuận. Khi một bên cho rằng đối tác của mình đã không hoàn thành nghĩa vụ như qui định trong Hiệp định, thì có thể yêu cầu tham khảo trong uỷ ban Hỗn hợp. Nếu việc tham khảo không đưa đến thoả thuận giữa các bên trong Uỷ ban Hỗn hợp, thì bên đưa ra khiếu nại có thể đưa ra một số biện pháp trả đũa mà những biện pháp này cũng được Uỷ Ban Hỗn hợp kiểm soát và rà soát thường xuyên trên quan điểm sẽ phải tìm ra được một giái pháp giữa các bên.

Cho đến năm 1995, các Hiệp định Thương mại Tự do của EFTA ký với nhiều đối tác ngoài EU vẫn không có các điều khoản đặc biệt về giải quyết tranh chấp. Những thủ tục duy nhất được dự kiến, như trong các bản FTA cũ, giữa các Nhà nước EFTA và EEC, là những khả năng can thiệp của Uỷ ban Hỗn hợp và nhưng thủ tục tham khảo đặc biệt nếu một bên cho rằng phía đối tác không hoàn thành nghĩa vụ theo thoả thuận. Các biện pháp trả đũa sẽ được áp dụng nếu việc tham khảo không đem lại sự nhất trí.

Sự tham khảo đặc biệt của uỷ ban Hỗn hợp được tiến hành vào năm 1994, theo thoả thuận giữa các Nhà nước Thành viên EFTA và Ba Lan, có liên quan đến việc tăng hạn ngạch nhập khẩu ô tô từ EU, trong khi nhập khẩu từ Thuy Điển lại không được xử lý trên cơ sở tương tự.

Một ví dụ khác là những tham khảo trong Ủy ban Hỗn hợp theo Hiệp định giữa các Nhà nước EFTA và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1994 liên quan đến các biện pháp chống phá giá mặt hàng giấy nhập khẩu từ Phần Lan.

Không có trường hợp nào trong số này đựơc các bên thoả thuận. Các trường hợp này đã đưa ra khỏi chương trình nghị sự của ưỷ ban Hỗn hợp khi các Nhà nước EFTA có liên quan trở thành các thành viên của EU vào ngày 1/1/1995.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).