1. Án tích là gì?

Án tích được hiểu là hậu quả pháp lý của việc phạm tội và là một trong những hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự. Án tích tồn tại trong quá trình người phạm tội bị kết án cho đến khi được xóa án và bị coi một đặc điểm xấu về nhân thân của người bị kết án.

Nếu một người đã từng phạm tội, chưa được xóa án tích mà phạm tội mới thì khi quyết định hình phạt, Tòa án sẽ có thể xem việc chưa được xóa án tích là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi chấp hành xong bản án được một thời gian nhất định, nếu đáp ứng được các điều kiện của pháp luật người có án tích có thể được xóa án tích.

Người đã xóa án tích được coi là người chưa bị kết án.

Quy định về xóa án tích trong luật hình sự là một trong những chính sách nhân đạo của Nhà nước, giúp những người đã từng phạm tội xóa bỏ mặc cảm trong quá khứ và làm lại cuộc đời.

2. Các trường hợp được coi là không có án tích theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành

Khoản 2 Điều 69 BLHS 2015 quy định:

“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”

Khoản 1 Điều 107 BLHS 2015 quy định:

1. Người dưới 18 tuổi được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý

c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.”

Hiện nay, có 2 quan điểm về cách hiểu các trường hợp này như sau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, người bị kết án trong các trường hợp này đương nhiên được coi là không có án tích kể từ khi bản án có hiệu lực, không liên quan tới việc người đó đã chấp hành xong bản án hay chưa. Nói theo cách khác, trường hợp này cũng giống như một cách xóa án tích đặc biệt, vô điều kiện: xóa án tích ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Trên thực tế, áp dụng như vậy là tạo điều kiện cho bị can, bị cáo được hưởng những quy định có lợi nhất theo đúng tinh thần của chính sách hình sự mới.

Quan điểm thứ hai cho rằng, cần thiết phải xem xét việc xóa án tích đối với người đã bị kết án khi họ đã chấp hành xong bản án. Bởi lẽ, theo quy định của BLHS 2015, hiện nay, có 02 trường hợp xóa án tích là: đương nhiên xóa án tích (Điều 70) và xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71 và Điều 72). Trong đó, xóa án tích theo quyết định của Tòa án chỉ áp dụng với 2 trường hợp: người bị kết án về các tội quy định tại chương XIII, chương XXVI của BLHS 2015 và người được xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (có tiến bộ rõ nét, đã lập công và được nơi công tác hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú đề nghị khi đáp ứng được điều kiện về thời gian). Theo các quy định này, việc xóa án tích chỉ được xem xét khi người bị kết án đã chấp hành xong bản án (chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách của án treo, chấp hành xong hình phạt bổ sung cũng như các quyết định khác của bản án).

Vì các trường hợp “không bị coi là có án tích” và “được coi là không có án tích” được quy định trong các điều luật về “xóa án tích” nên cần hiểu đây là trường hợp xóa án tích đặc biệt theo tinh thần của Điều 70 như một cách tính xóa án tích thứ 3. Theo đó, nếu các trường hợp bình thường sẽ được xem xét xóa án tích khi đã hết thời hạn được quy định mà không phạm tội mới (từ một đến năm năm) thì trường hợp đặc biệt này được đương nhiên xóa án tích ngay sau khi thi hành xong bản án. Sự khoan hồng của pháp luật được thể hiện ở việc đã rút ngắn triệt để thời hạn xóa án tích trong trường hợp này.

Hơn nữa, xét đến cùng, việc tính đã xóa án tích hay chưa cũng chỉ là để đánh giá quá trình nhân thân của một con người cũng như xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm, tái phạm nguy hiểm” đối với họ trong lần phạm tội tiếp theo. Điều 91 BLHS 2015 chỉ quy định rõ:

“Án đã tuyên đố với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội thì không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm”.

Theo quy định này, án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội dù đã thi hành xong hay chưa thì cũng không dùng để tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Nếu 03 đối tượng còn lại (người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, người được miễn hình phạt – theo Điều 69; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý và người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương XII – theo Điều 107) cũng được hưởng chính sách này như người chưa đủ 16 tuổi phạm tội thì phải được quy định rõ trong điều luật. Vì họ không được quy định rõ về việc án đã tuyên không được dùng để tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm (như người chưa đủ 16 tuổi phạm tội) nên tôi cho rằng vẫn cần phải sử dụng để tính án tích như đã phân tích ở trên.

Theo người viết, nếu hiểu và áp dụng theo cách thứ hai, sẽ vừa đảm bảo tính chất trừng phạt, răn đe của bản án trước, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo hơn với những người bị kết án theo khoản 2 Điều 69 và khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, nó còn giải quyết được mâu thuẫn trong trường hợp người bị kết án chưa thi hành xong bản án trước đã phạm tội mới và bị tổng hợp hình phạt.

Ví dụ: A có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 BLHS), được xử 9 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng (Khi phạm tội, A mới 17 tuổi 11 tháng). Trong thời gian thử thách, A tiếp tục phạm tội mới: trộm cắp tài sản trị giá trên 2 triệu đồng.

Công văn số 01 ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn: “Việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với trường hợp khi phạm tội và bị kết án lần thứ nhất người bị kết án là người chưa thành niên, khi phạm tội và bị kết án lần thứ hai thì người bị kết án là người đã thành niên được thực hiện theo quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015 (Điều 51 BLHS năm 1999) như đối với trường hợp người đã đủ 18 tuổi.”

Nếu hiểu theo cách đầu tiên, tại bản án lần này, cần áp dụng Điều 107 BLHS 2015 để nhận định coi như A không có án tích nghĩa là chưa bị kết án nhưng lại tổng hợp hình phạt với bản án trước. Như vậy, bản án trước của A trong trường hợp này gọi là gì, nếu đã coi là không có tiền án thì căn cứ vào đâu để tổng hợp hình phạt?

Còn theo quan điểm thứ hai, công văn 01 ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao không nêu rõ là trong trường hợp này có tính A đã tái phạm hay không mà chỉ hướng dẫn về việc tổng hợp hình phạt. Hơn nữa, Khoản 2 Điều 56 BLHS quy định: “ Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này”. Quy định này không loại trừ việc sử dụng bản án mà người phạm tôi đang chấp hành để tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Để phù hợp với quy định về tiền án, xóa án tích và tổng hợp hình phạt, theo tôi, cần hiểu theo hướng: vì A chưa thi hành xong bản án đầu tiên, nên không thể xem xét đến việc xóa án tích đối với bản án này. Do đó, vẫn cần nhận định là A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm và tổng hợp hình phạt đối với cả hai bản án.

Từ những phân tích nêu trên, thiết nghĩ, để có cách hiểu và áp dụng chính xác, các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể hơn về trường hợp “không bị coi là có án tích” được quy định tại khoản 2 Điều 69 và khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự 2015. Theo quan điểm của cá nhân tôi, “không bị coi là có án tích” chính là trường hợp đặc biệt, được quy định tại điều luật về “xóa án tích”. Do đó, cũng như chính tên gọi của điều luật này, nên chăng cần hiểu theo hướng chỉ xem xét người đã bị kết án có được đánh giá là “không bị coi là có án tích” hay không khi họ đã chấp hành xong bản án. Như vậy, vừa thể hiện rõ sự khoan hồng của Nhà nước với những đối tượng đặc biệt này, vừa đảm bảo sự thống nhất, nguyên tắc pháp chế trong các quy định của pháp luật.

Từ góc độ học thuật, cũng là trăn trở của cá nhân người viết khi tiếp cận theo hướng phản biện, tôi muốn đưa ra cùng trao đổi để có cách nhìn đa chiều hơn về vấn đề này. Rất mong nhận được hướng dẫn cũng như ý kiến trao đổi của các đồng chí để tôi có thể hoàn thiện hơn nhận thức của mình.

3. Điều kiện xóa án tích

3.1. Trường hợp đương nhiên xóa án tích

Theo khoản 1 Điều 70 Bộ luật Hình sự, đối tượng đương nhiên xóa án tích bao gồm:

– Người phạm tội không bị bị kết án về một trong các tội xâm phạm an ninh Quốc gia quy định tại chương XIII Bộ luật Hình sự hoặc các tội phá hoại hòa bình, chống loại người và tội phạm chiến tranh quy định chương XXVI;

– Đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án;

Điều kiện đương nhiên xóa án tích được quy định tại khoản 2, 3 Điều 70 như sau:

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.

Nếu có đầy đủ điều kiện xóa án tích như trên, cơ quan quản lý dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án, khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích.

3.2. Trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án

Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017,  đối tượng được xóa án tích theo quyết định của Tòa án là:

– Người bị kết án về một về một trong các tội xâm phạm an ninh Quốc gia quy định chương XIII Bộ luật Hình sự hoặc một trong các tội phá hoại hòa bình, chống loại người và tội phạm chiến tranh quy định tại chương XXVI.

Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người bị kết án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, lao động của người bị kết án và các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 71 như sau:

2. Người bị kết án được Tòa án quyết định việc xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a, điểm b khoản này thì Tòa án quyết định việc xóa án tích từ khi người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

Lưu ý:

– Nếu người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị bác đơn mới được xin xóa án tích lần hai.

– Nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị bác đơn mới được tiếp tục xin xóa án tích.

3.3. Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt

Điều 72 Bộ luật Hình sự quy định, người đã bị kết án có thể được Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất 1/3 thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70, khoản 2 Điều 71 và được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị xóa án tích do có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt, đã lập công.

4. Ý nghĩa của việc xóa án tích

– Về mặt pháp lý 

Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định: “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án” Như vậy, một người bị kết án hình sự đã được xóa án tích thì họ sẽ không phải gánh chịu hậu quả của việc từng bị kết án mang lại. Nghĩa là, sau khi xóa án tích,họ trở thành người bình thường về mặt tư pháp và họ không bị hạn chế về quyền lợi do đã từng bị kết án. 

– Về mặt xã hội 

Xóa án tích là một việc làm thể hiện tính nhân văn của nhà nước đối với những người đã bị kết án hình sự, tạo điều kiện cho họ làm lại cuộc đời, giúp họ hòa nhập với cộng đồng, thay đổi bản thân để cống hiến cho xã hội.

5. Cách tính thời gian xóa án tích

– Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.

 –  Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.

– Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó.

– Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.