1. Khái niệm hoãn phiên Tòa

Hoãn phiên tòa là tạm ngừng trong một thời gian nhất định việc xét xử vụ án theo trình tự sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong những trường hợp do pháp luật quy định.

Hoãn phiên tòa được hiểu là việc không tiến hành xét xử vì một số lý do nhằm đảm bảo việc xét xử được khách quan, công bằng. Việc hoàn phiên tòa này chỉ trong một thời gian nhất định, sau khoảng thời gian đó sẽ tiến hành xét xử.

Việc hoãn phiên tòa xét xử được thực hiện trước khi phiên tòa diễn ra.

Về nguyên tắc thì phiên tòa phải được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa. Tuy nhiên, có những trường hợp vì những lý do khác nhau dẫn đến phiên toà sơ thẩm không diễn ra theo đúng trình tự nêu trên và có thể bị hoãn hoặc tạm ngừng.

2. Các bước xét xử vụ án dân sự

Bước 1: Thụ lý vụ án

Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.

– Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay Giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện.

Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện.

Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

– Chánh án tòa phân công Thẩm phán xem xét đơn (Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn)

– Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán đước phân công xem xét đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:

+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;

+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;

+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;

+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Bước 2: Chuẩn bị xét xử

– Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng.

– Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 01 tháng.

– Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:

+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;

+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

+ Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

+ Đưa vụ án ra xét xử.

Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (Điều 203)

Bước 3: Hòa giải vụ án

– Theo quy định tại Khoản 1 Điều 205 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 BLTTDS.

+ Ra quyết định hòa giải thành khi không có đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận;

+ Trong trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán chủ tọa phiên hòa giải lập biên bản hòa giải không thành và thực hiện các thủ tục tiếp theo để đưa vụ án ra xét xử.

Bước 4: Mở phiên tòa xét xử

Theo quy định tại Điều 222 BLTTDS 2015 phiên tòa phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp phải hoãn phiên tòa.

Thành phần tham gia phiên tòa được quy định từ Điều 227 đến Điều 232 tại BLTTHS, gồm: Đương sự; Người đại diện của đương sự; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Người làm chứng; Người giám định; Người phiên dịch và Kiểm sát viên.

3. Các trường hợp hoãn phiên tòa theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định rõ những trường hợp phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, có những quy định có tính chất bắt buộc, chỉ có một sự lựa chọn, nhưng cũng có những quy phạm có tính chất tùy nghi, dành quyền cho Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc cụ thể để quyết định có hoãn phiên tòa hay vẫn tiếp tục xét xử. Đối với các quy định có tính chất bắt buộc thì Hội đồng xét xử phải tuân thủ thật chuẩn xác; đối với các quy định có tính chất tùy nghi thì Hội đồng xét xử cũng không được tùy tiện mà phải cân nhắc trên cơ sở đánh gĩấ việc xét xử trong trường hợp đó có trở ngại gì không, có bảo đảm đủ điều kiện để xét xử khách quan, toàn diện, chính xác và tôn trọng quyền tố tụng của đương sự không… để quyết định.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 56, khoản 2 Điều 84, Điều 227, các điều từ Điều 229 đến Điều 232, Điều 241, khoản 4 Điều 257 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì cắc trường hợp sau đây phải hoãn phiên tòa:

a) Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên; trừ trường hợp có thành viên dự khuyết thay thế.

b) Trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch.

c) Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà có đương sự hoặc ngưòi đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có người vắng mặt…

d) Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng.

đ) Tòa án chưa triệu tập hợp lệ đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đựơng sự.

e) Người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.

g) Các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, nhưng Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa.

h) Có người tham gia tố tụng yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, yêu cầu này là chính đáng, cần thiết.

i) Vắng mặt người làm chứng hoặc người giám định trong khi Hội đồng xét xử nhận thấy sự có mặt của họ là rất cần thiết.

k) Những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa, có người đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa để triệu tập những người này tham gia phiên tòa, và Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải hoãn phiên tòa.

l) Các trường hợp hoãn phiên tòa khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

Khi Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa phải chỉ ra được căn cứ, quy định cụ thể mà Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành cho phép được hoãn phiên tòa. Nếu hoãn phiên tòa trong trường hợp không có điều khoản nào của Bộ luật tố tụng dân sự quy định thì việc hoãn phiên tòa đó là không có căn cứ, không đúng pháp luật.

Trên thực tế, dp không nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nên có không hiếm các trường hợp hoãn phiên tòa không đúng. Ví dụ như: hoãn phiên tòa để đương sự thu thập thêm chứng cứ, hoãn phiên tòa để các đương sự thương lượng, hoãn phiên tòa để hòa giải lại, đương sự đề nghị Tòa án cho hoãn phiên tòa với lý do đương sự đưa ra không thuộc các căn cứ phải hoãn phiên tòa nhưng Hội đồng xét xử vẫn chấp nhận, V.V.. Việc hoãn phiên tòa trong các trường hợp đó bị coi là vi phạm tố tụng, làm kéo dài vụ việc.

Theo quy định tại Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, việc hoãn phiên tòa phải thể hiện bằng một quyết định và phải thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết, có người vắng mặt phải gửi ngay cho họ và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; thồi hạn hoãn phiên tòa không quá ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Nếu vụ án đã có quyết định đưa ra xét xử nhưng phải hoãn việc xét xử nhiều lần, thì mỗi lần hoãn phiên tòa không được quá giối hạn luật định là 30 ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa của lần đó. Tuy nhiên, để vụ án sớm được kết thúc thì không nhất thiết mỗi lần hoãn phải để đến 30 ngày mới mỏ lại phiên tòa, mà tùy tình hình cụ thể của vụ việc để xác định thời gian hoãn phù hợp, nhưng cũng khồng nên quá ngắn, vì có thể người vắng mặt chưa kịp nhận giấy báo của Tòa án. Trường hợp sau khi hoãn phiên tòa mà Tòa án không thể mở lại phiên tòa đúng thời gian, địa điểm đã ghi trong quyết định hoãn phiên tòa thì Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mỏ lại phiên tòa.

Việc Tòa án phải thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết việc hoãn phiên tòa, đối với người vắng mặt cũng phải gửi ngay Quyết định hoãn, đồng thời gửi ngay Quyết định đó cho Viện kiểm sát, là nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch trong xét xử, bảo đảm quyền có mặt của người tham gia tố tụng trong phiên tòa tiếp theo, Viện kiểm sát thực hiện quyển kiểm sát việc xét xử, trực tiếp kiểm sát thòi hạn xét xử của Tòa án, kiểm sát việc hoãn phiên tòa có đúng pháp luật hay không.

4. Đương sự trong vụ án dân sự

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì đương sự là người có quyển lợi, nghĩa vụ trong vụ việc dân sự tham gia tố tụng với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trong một số trường hợp tuy họ không có quyển, lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nhưng lại tham gia tố tụng để bạo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người khác. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức (tổ chức có tư cách pháp.nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân). Hoạt động tố tụng của họ có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng, họ là một thành phần chủ yếu của vụ việc dân sự, nếu không có đương sự thì không có vụ việc dân sự tại Toà án. Khi tham gia vào quá trình tố’ tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình.

Các đương sự trong vụ việc dân sự gồm có: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự; người yêu cầu.

– Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khỏi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định khởi kiện để yêu cầụ Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

– Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan,, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng, quyển và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Vụ việc dân sự là ngưòi tuy không khỏi kiện, không phải là người yêu cầu, không bị kiện, nhưng khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ dân sự nên họ có thể tự mình để nghị hoặc đương sự khấc để nghị đưa họ vào tham gia tố tụng: hoặc do Toà án chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

– Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra các yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Toà án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhậh cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

5. Quy định về triệu tập đương sự của Tòa án

Tìm hiểu quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành để xác định những hoạt động nào của Tòa án cần phải triệu tập và khi đó đương sự phải có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án hay không người viết nhận thấy việc triệu tập của Tòa án là khá phong phú về thời điểm tố tụng (bao gồm cả thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm…); cũng như chủ thể được triệu tập (bao gồm: đương sự trong vụ việc dân sự và cả những người tham gia tố tụng khác). Tuy nhiên, quy định hoạt động tố tụng nào Tòa án (Thẩm phán) có quyền hạn triệu tập lại là vấn đề hiện đang còn tranh cãi. Đồng thời, vì còn tranh cãi trong việc xác định hoạt động tố tụng nào Tòa án có quyền triệu tập đã làm ảnh hưởng đến việc xác định Tòa án đã thực hiện việc “triệu tập hợp lệ” hay không. Nói cách khác, nếu Tòa án triệu tập đối với những hoạt động tố tụng không phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì đây chính là một trong những trường hợp xác định Tòa án đã thực hiện việc triệu tập không hợp lệ.

Nghiên cứu một số quy định về việc Tòa án triệu tập các chủ thể nói chung và đương sự trong vụ án dân sự nói riêng cho thấy có một vấn đề còn tồn tại là xác định hoạt động tố tụng nào Tòa án có quyền “triệu tập”.

Pháp luật tố tụng dân sự quy định chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn triệu tập đương sự chính là Thẩm phán khi được Chánh án Tòa án phân công (khoản 9 Điều 48 BLTTDS). Thẩm phán chỉ triệu tập người tham gia “phiên tòa, phiên họp”.