1.Việc áp dụng các điều ước quốc tế 

Công ước New York

Công ước Niu Y-oóc yêu cầu toà án của các nước thành viên phải thi hành các thoả thuận và phán quyết trọng tài. Hiện có hơn 140 nước tham gia Công ước này. Công ước này đã góp phần vào sự phát triển của chế định trọng tài quốc tế, vì các bên tin tưởng rằng nếu họ thắng kiện tại tố tụng trọng tài, họ sẽ được bồi thường. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, đối với Luật sư của LVN Group của doanh nghiệp, lí do quan trọng nhất để lựa chọn hình thức trọng tài thay cho toà án để giải quyết tranh chấp, chính là khả năng thi hành cao của phán quyết trọng tài. Bởi vì Công ước Niu Y-oóc là công ước quan trọng nhất về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài, mục này sẽ tập trung chủ yếu vào việc phân tích các chức năng, điều kiện và hiệu lực của Công ước này. Điều III Công ước Niu Y-oóc yêu cầu toà án các nước thành viên công nhận các phán quyết trọng tài có giá trị ràng buộc và thi hành chúng phù hợp với pháp luật quốc gia và các quy định của Công ước này. Mặc dù thuật ngữ ‘công nhận’ và ‘thi hành’ thường đi cùng với nhau, nhưng chúng có ý nghĩa khác nhau. Khi toà án ‘công nhận’ một phán quyết trọng tài, điều đó có nghĩa là toà án công nhận phán quyết này có hiệu lực và mang tính ràng buộc, và như vậy toà án sẽ công nhận phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp luật như bản án của toà án. Như vậy, một phán quyết trọng tài được công nhận có thể được dùng làm cơ sở để biện hộ trong một vụ kiện tại toà án hoặc trọng tài. Do phán quyết trọng tài được chính thức công nhận có hiệu lực pháp luật, nên các vấn đề đã được giải quyết trong phán quyết trọng tài thông thường sẽ không thể bị xem xét lại tại toà án hoặc trọng tài. Ví dụ: bị đơn là bên thắng kiện tại tố tụng trọng tài và phán quyết trọng tài chỉ đơn giản nói rằng bị đơn không phải chịu trách nhiệm gì. Bị đơn có thể sẽ muốn phán quyết này được công nhận vì mục đích ngăn chặn các vụ kiện dựa trên cùng các sự kiện và có thể được tiến hành trước một toà án hoặc hội đồng trọng tài khác. Việc ‘thi hành’ phán quyết trọng tài có nghĩa là sử dụng bất kì biện pháp chính thức nào để thu hồi tiền hoặc thực thi bất kì một sự uỷ quyền nào trong phán quyết trọng tài.

Khi phán quyết trọng tài nói rằng bị đơn phải bồi thường thiệt hại bằng tiền cho nguyên đơn, và bị đơn lại không tỏ ra sốt sắng thực hiện trách nhiệm trả tiền, khi đó nguyên đơn có thể tìm cách trước hết là công nhận và sau đó là sử dụng cơ chế thực thi pháp luật của toà án để thi hành phán quyết trọng tài. Khi phán quyết được công nhận, nguyên đơn có thể sử dụng bất kì biện pháp nào được pháp luật cho phép để thi hành phán quyết này, ví dụ: sai áp tài sản của bị đơn phù hợp với các thủ tục pháp luật ở nước mà nguyên đơn muốn thi hành phán quyết trọng tài. Ở một số nước, hầu như không có sự khác nhau trên thực tế giữa thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Khi một phán quyết được thi hành, điều đó có nghĩa là nó đã được công nhận từ trước đó.

Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, điều ước quốc tế điều chỉnh loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, được ký kết tại Viên năm 1980.
Việt Nam chưa gia nhập Công ước Viên năm 1980. Tuy nhiên, pháp luật của Việt Nam cũng cho phép các bên được sử dụng Công ước Viên 1980 để điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước Viên 1980 sẽ không đương nhiên có hiệu lực nếu các bên không lựa chọn và ghi rõ trong hợp đồng. Khi các bên đã dẫn chiếu đến Công ước Viên 1980 thì toàn bộ các điều khoản và nội dung của Công ước Viên 1980 sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Trong lĩnh vực vận tải hàng hải, các điều ước quốc tế đang được người chuyên chở sử dụng để điều chỉnh hợp đồng vận chuyển bao gồm:
• Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển (International Convention for the unification of certain rules relating to Bills of lading) – Công ước Brussel 1924/ Quy tắc Hague
• Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển – Quy tắc Hague Visby 1968
• Nghị định thư SDR 1979
• Công ước của Liên hiệp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển (United Nation Convention on the carriage of goods by sea) – Công ước/ Quy tắc Hamburg 1978

2. Việc lựa chọn cơ chế tài phán có lợi nhất để thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài

‘Forum shopping’ là việc một bên trong thoả thuận trọng tài tìm kiếm cơ chế tài phán có lợi nhất để tiến hành các hành vi tố tụng, hoặc nơi thuận lợi nhất để thi hành hoặc huỷ phán quyết trọng tài. Căn cứ của việc lựa chọn này là việc xác định tài sản của bên thua kiện tại các nước khác nhau. Nếu tài sản chỉ có ở một nước, sẽ không có sự lựa chọn nào khác để thay thế. Nếu tồn tại những căn cứ thực tế cho việc lựa chọn, khi đó bên quan tâm đến việc này sẽ so sánh các ưu điểm và nhược điểm ở mỗi nước. Những yếu tố cơ bản cần phải xem xét bao gồm: Mức độ tự do ở nước đó trong việc công nhận các phán quyết trọng tài nước ngoài, mức độ nước đó tham gia và thực hiện Công ước Niu Y-oóc, điều khoản bảo lưu trật tự công cộng trong pháp luật của nước đó có ngặt nghèo không? và nó tác động như thế nào đến việc thi hành phán quyết trọng tài? liệu các thủ tục thi hành có thể bị tạm đình chỉ thực hiện không và trong thời gian bao lâu? liệu các cơ quan chính phủ có được hưởng quyền miễn trừ thi hành không và trong trường hợp nào? cơ sở nào để huỷ phán quyết trọng tài? và thời hạn thực hiện các thủ tục có liên quan ra sao?

3.Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài theo Công ước Niu Y-oóc

Công ước Niu Y-oóc là một trong những điều ước quốc tế đa phương thành công nhất. Cùng với các điều ước quốc tế khác ủng hộ việc thi hành các phán quyết trọng tài quốc tế, Công ước này đã đóng góp vào việc phát triển trọng tài quốc tế như là một phương thức ưu tiên trong việc giải quyết các  tranh chấp thương mại. Các bên mong muốn sử dụng trọng tài quốc tế bởi vì họ tin rằng nếu họ đạt được phán quyết trọng tài, thì phán quyết này sẽ dễ dàng được thực hiện ở hầu như tất cả các nước trên thế giới, nơi có thể tìm thấy tài sản của bên thua kiện.

4.Các yêu cầu đối với việc thi hành phán quyết trọng tài

Phạm vi Công ước có phạm vi áp dụng là các phán quyết trọng tài quốc tế và nói rõ là Công ước này điều chỉnh các phán quyết trọng tài được tuyên ở nước khác với nước mà phán quyết đó được thi hành. Công ước này cũng cho phép thi hành các phán quyết trọng tài được toà án của nước nơi thi hành coi như ‘không phải phán quyết trọng tài nội địa’. (b) Quyền tài phán và vấn đề ‘toà án không thích hợp’ (‘forum non conveniens’) Trong trường hợp bên thắng kiện muốn thi hành phán quyết trọng tài ở một nước thành viên Công ước, thì việc bên thua kiện có tài sản ở nước đó đã đủ để toà án nước đó có quyền tài phán và cho phép thi hành phán quyết trọng tài theo Công ước. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, một số toà án đã từ chối cho thi hành phán quyết trọng tài dựa trên cơ sở rằng toà án Hoa Kỳ không có quyền tài phán đối với bên thua kiện, hoặc toà án được yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài không phải là toà án thích hợp theo học thuyết ‘toà án không thích hợp’.  Mặc dù học thuyết này bị chỉ trích ở phạm vi quốc tế khi áp dụng đối với việc thi hành các phán quyết trọng tài theo Công ước Niu Y-oóc, nhưng thực tế là một số toà án ở Hoa Kỳ đã từ chối cho thi hành phán quyết trọng tài dựa trên học thuyết này. Điều này cần phải được các bên cân nhắc trong điều khoản trọng tài, khi có ý định thi hành phán quyết trọng tài ở Hoa Kỳ.

5.Thủ tục thi hành

Thủ tục thi hành phán quyết trọng tài thay đổi theo từng nước, vì các nước kí kết Công ước cho thi hành phán quyết trọng tài phù hợp với pháp luật và thực tiễn của nước mình. Tuy nhiên, nước nơi phán quyết được yêu cầu thi hành không thể áp đặt mức án phí cao hơn hoặc đặt ra những điều kiện tốn kém hơn so với những điều kiện áp dụng đối với việc thi hành phán quyết trọng tài nội địa. Điều kiện duy nhất mà Công ước quy định, đó là bên đề nghị công nhận và thi hành phải cung cấp cho toà án bản gốc hoặc bản sao có chứng thực phán quyết trọng tài, và bản chính hoặc bản sao có chứng thực thoả thuận trọng tài. Nếu ngôn ngữ của phán quyết hoặc thoả thuận trọng tài không cùng ngôn ngữ được toà án chính thức sử dụng, thì bên đề nghị phải cung cấp bản dịch có chứng thực các tài liệu này. Thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài do mỗi nước tự quy định, tuy nhiên, thường là giống với thủ tục được sử dụng ở nước đó trong việc công nhận và thi hành các bản án của toà án nước ngoài. Tuy nhiên, Công ước quy định một số lí do để bác việc thi hành phán quyết trọng tài, bao gồm: Phán quyết không có khả năng thi hành và không có hiệu lực; không được thông báo hoặc không công bằng; trọng tài viên hành động vượt quá thẩm quyền của mình; hội đồng trọng tài hoặc thủ tục không phù hợp với thoả thuận của các bên; phán quyết trọng tài chưa có hiệu lực hoặc đã bị huỷ.  Lí do khác để bác việc thi hành phán quyết trọng tài là: vụ tranh chấp không thích hợp để giải quyết bằng trọng tài hoặc có sự vi phạm điều khoản bảo lưu trật tự công cộng ở nước được yêu cầu thi hành. Đặc điểm quan trọng nhất của các lí do biện hộ cho việc không thi hành phán quyết trọng tài, đó là các lập luận này không dựa trên lí lẽ phải trái của phán quyết trọng tài. Trên thực tế, ước tính có khoảng 98% các phán quyết trọng tài được thi hành trên cơ sở các bên tự nguyện thi hành, cộng với việc đề nghị toà án cho thi hành phán quyết trọng tài.