Luật sư tư vấn:

Từ thực tiễn ký kết hợp đồng cho vay và giải quyết tranh chấp án tín dụng tại Tòa án minh chứng cho thấy, các cấp Tòa án thường áp dụng sai các quy định về chế tài do vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vay và lãi suất. Nhiều quyết định của Tòa án tính lãi trùng lắp gây thiệt hại cho bên vay. Đây là những điển hình về các thỏa thuận khung do tổ chức tín dụng tự chủ động, áp đặt đưa vào hợp đồng nhằm hưởng nhiều lợi ích từ các điều khoản hợp đồng được soạn sẵn đó, nhưng không được các cấp Tòa án phát hiện, để tuyên bác bỏ khi giải quyết tranh chấp.

Nghiên cứu nhận diện 03 (ba) hành vi sai phạm, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục tình trạng này như sau:

Thứ nhất, vừa áp dụng chế tài phạt chậm trả lãi, vừa chuyển nợ quá hạn

Hành vi vừa phạt chậm trả lãi, vừa chuyển nợ quá hạn xảy ra phổ biến trong thực tiễn xét xử, đã được Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 156/GĐT-DS ngày 31/7/2012 chỉ ra sai phạm, với lý do, các cấp tòa tuyên buộc phía bị đơn (bên vay) gánh chịu lãi suất nợ quá hạn, vừa phải thanh toán lãi phạt không quy đúng quy định. Theo phán quyết của Bản án phúc thẩm số 105/2013/ KDTM-PT ngày 18/01/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định của Tòa án cấp này về lãi quá hạn là: 32.632,29 USD; lãi phạt là 2.441,57 USD (đô la Mỹ). Quyết định Giám đốc thẩm số 32/2014/KDTM-GĐT ngày 31/7/2014 của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao sau đó đã hủy bỏ bản án trên (Xem: Phụ lục – Vụ án thứ 06). Thật vậy, hành vi phạt chậm trả lãi chỉ áp dụng đối với khoản lãi phải đến hạn thanh toán theo tiến độ hợp đồng được ký kết. Mức lãi suất này do tổ chức tín dụng và khách hàng tự thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả (khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN).

Thông thường, tổ chức tín dụng áp dụng hình thức phạt chậm trả đối với những khách hàng có điều kiện tiếp tục thực hiện hợp đồng cho vay. Đối với những trường hợp chuyển nợ quá hạn, hành vi này chỉ áp dụng khi bên vay đến hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp tổ chức tín dụng quyết định chuyển nợ quá hạn, tổ chức tín dụng đó không được phép áp dụng bổ sung biện pháp chế tài chậm trả lãi. Nếu tổ chức tín dụng trong quá trình thực thi hợp đồng, hoặc Tòa án khi xét xử vừa phạt chậm trả lãi, đồng thời tiếp tục chuyển nợ quá hạn, theo tác giả là không đúng pháp luật.

Thứ hai, vừa phạt vi phạm hợp đồng, vay vừa chuyển nợ quá hạn

Biện pháp chế tài phạt vi phạm hợp đồng vay, áp dụng khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận giữa các đương sự (tổ chức tín dụng và khách hàng) hoặc theo luật định, về nguyên tắc, thỏa thuận chế tài vi phạm hợp đồng cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật, khi đó mồi làm phát sinh trách nhiệm của bên. vi phạm. Song chính sự thiếu rõ ràng, cụ thể giữa các quy định về nghĩa vụ hợp đồng theo thỏa thuận hoặc theo luật định là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các Tòa án có những quyết định, phán quyết chưa đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của bên vay.

Ví dụ: Trong một vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án tuyên xử như sau: “Buộc Công ty cổ phần Dệt LA trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần KTVN tính đến ngày 16/5/2013 là 129.921.366.138 đồng, trong đó… nợ lãi trong hạn 83.388.899 đồng, nợ lẫi quá hạn 21.127.928.821 đồng, tiền phạt 34.396.255.603 đồng…”– Xem tại: Bản án số 04/2013/KDTM-ST ngày 16/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh LA. Bản án phúc thẩm số 25/2013/KDTM-PT của Tòa án nhân dân tỉnh LA xét xử sau đó đã giữ nguyên toàn bộ nội dung phán quyết của bản án sơ thẩm nàyỞ tình huống pháp lý này, Tòa án chấp nhận một khoản tiền phặt cùng với quyết định chuyển nợ quá hạn của tổ chức tín dụng. Song, theo tác giả, lãi suất nợ quá hạn được xem là khoản phạt vi phạm chậm thanh toán đối với những hợp đồng có đối tượng là vốn tiền tệ. Cho dù các bên có thỏa thuận, ghi trong hợp đồng cho vay điều khoản phạt vi phạm hợp đồng dựa trên số tiền gốc chậm thanh toán, thì cũng phải xem đây là thỏa thuận trái pháp luật, để tuyên bác bỏ.

Thứ ba, vừa phạt vi phạm, vừa bồi thường thiệt hại cho bên cho vay

Điều khoản hợp đồng cho phép tổ chức tín dụng yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với bên vay không phổ biến vì về cơ bản, các chế tài phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng được các tổ chức tín dụng đặt ra tương đối đầy đủ. Trên thực tế, rải rác trong các hợp đồng cho vay được ký kết vẫn có những trường hợp tổ chức tín dụng tự ấn định, đưa vào hợp đồng biện pháp chế tài này.

Ví dụ: Hợp đồng tín dụng số 10/2010/HĐTD 1-OCEANBANK03 ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần ĐD (Chi nhánh Sài Gòn) với Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại dịch vụ NY (Bản hợp đồng này do phía ngân hàng chủ động soạn thảo, chưa được hai bên chính thức ký kết để triển khai thực hiện). điểm g khoản 9.1 Điều 9 có ghi: “Phải bồi thường mọi thiệt hại cho bên B nếu vi phạm hợp đồng nàý’ (“bên B” trong hợp đồng với tư cách là “bên cho vay”). Một hợp đồng khác còn ghi cụ thể các khoản bồi thường thiệt hại: “tiền lãi, chi phí đã trả hoặc phải trả cho các khoản vay để gánh vác
các khoản tiền không được thanh toán của khách hằng’ỵ. 
Thỏa thuận về bồi thường thiệt hại nêu trên là trái pháp luật. Thiệt hại của tổ chức tín dụng đối với tiền gốc chậm thu hồi, đó chính là lãi vay phải trả thay vì phải cho đối tượng khách hàng khác vay. Việc tổ chức tín dụng thỏa thuận áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại bên cạnh lãi suất nợ quá hạn là không đúng. Vấn đề này đã được pháp luật hiện nay nhìn nhận khắc phục và quy định cụ thể tại khoản 1, Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.

Từ những nhận định được dẫn chứng bằng thực tiễn xét xử nêu trên, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này (áp dụng sai các quy định chế tài vi phạm hợp đồng cho vay) là do các tổ chức tín dụng lạm dụng, đưa vào hợp đồng vay nhiều biện pháp chế tài không phù hợp.

Giải pháp khắc phục tình trạng này như sau:

Một là, cần nhận diện, nghiêm cấm các tổ chức tín dụng chủ động soạn thảo hợp đồng vay có nội dung điều khoản trái pháp luật, bất lợi cho bên vay tương tự như những hành vi nêu trên. Đối với khoản tiền bên vay đã thanh toán, bị áp dụng các chế tài phạt vi phạm sai, vượt quá khoản tiền lẽ ra họ phải thanh toán thì được trừ vào tiền nợ gốc, phần dôi dư (nếu có) phải hoàn trả cho bên vay. Đây là giải pháp xử lý thiết thực, hạn chế việc bên
vay đòi lại khoản tiền do thu sai, giảm thiểu đáng kể số tiền nợ phải trả.

Hai là, ngành Tòa án cần ban hành nhiều án lệ nhằm tạo sự đồng thuận thống nhất khi áp dụng luật vào hoạt động giải quyết tranh chấp. Đó còn là định hướng để các tổ chức tín dụng tham khảo, áp dụng vào thực tiễn giao kết hợp đồng cho vay, tránh tình trạng sai phạm phổ biến như trên xảy ra.

Làm rõ các nguyên tắc tính lãi không chỉ bảo đảm tính thông nhất khi thực thi. Những giải pháp này nếu được thực hiện cũng sẽ góp phần hạn chế tình trạng lạm dụng cơ chế thỏa thuận hợp đồng để ban hành các điều khoản trái pháp luật, bảo vệ quyền lợi bên vay, tạo niềm tin cho các tổ chức, cá nhân tìm đến tổ chức tín dụng khi gặp khó khăn về nguồn vốn.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.