Luật sư tư vấn:

1. Khái niệm về vụ việc dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định một thủ tục chung về việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại, về dân sự, hôn nhân và gia đình, về lao động và đồng thời Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định những điểm đặc thù cho mỗi loại việc một cách hợp lý.

Trong đó có phân chia ra hai loại thủ tục đó là trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự).

Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ việc dân sự được hiểu là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Trong phạm vi của chuyên đề này tác giả chỉ đề cập thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp vể dân sự, hôn nhân gia đình và các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình.

2. Các đương sự trong vụ việc dân sự

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Vụ việc dân sự là người tuy không khởi kiện, không phải là người yêu cầu, không bị kiện, nhưng khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ dân sự nên họ có thể tự mình để nghị hoặc đương sự khấc để nghị đưa họ vào tham gia tố tụng: hoặc do Toà án chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có hai dạng:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu đệc lập, họ tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn, bị đơn, người yêu cầu; yêu cầu của họ có thể buộc nguyên đơn, bị đơn, người yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ đối vối họ. Thông thường, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tô tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ việc dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn, bị đơn, người yêu cầu mà quyền lợi của họ. gắn với nguyên đơn, bị đơn hoặc với cả hai. Vì vậy, họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ sau đó có thể sẽ gặp khó khăn hơn.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà quyền hoặc nghĩa vụ của họ gắn với nguyên đơn, bị đơn hoặc lợi ích của họ gắn với yêu cầu của người yêu cầu trong việc dân sự, nên việc tham gia tố tụng của họ ít nhiều bị phụ thuộc vào hành vi tố tụng của các đương sự nói trên. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn có quyền định đoạt các vấn đề thuộc lợi ích của mình.

Theo quy định tại phần thứ năm Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì chỉ có người yêu cầu và “người có liên quan” trong việc dân sự. Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành cũng không đề cập khái niệm về người yêu cầu. Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm về người yêu cầu như sau:

– Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra các yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Toà án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Toà án công nhậh cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

3. Khái niệm về chứng cứ

Căn cứ Điều 93 Bộ Luật tố tụng Dân sự quy định về khái niệm chứng cứ như sau:

“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.

4. Đặc điểm của chứng cứ

Chứng cứ luôn được xem là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định, là cơ sở giúp Tòa án đưa ra kết luận cuối cùng, vì vậy chứng cứ luôn cần phải đảm bảo 03 yếu tố: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp nhằm tìm ra sự thật khách quan. Cụ thể:

– Tính khách quan: chứng cứ không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người – không được tạo ra chứng cứ. Do đó, con người chỉ có thể nhận thức về nó, thu thập, nghiên cứu, đánh giá nó, chứ không thể tạo ra chứng cứ theo đúng ý nghĩa, bản chất của chứng cứ. Mọi hành vi sửa chữa, thay đổi, tạo ra cái gọi là chứng cứ, thì đó chắc chắn không phải là chứng cứ của vụ án, đó là giả chứng cứ. Vì vậy, khi thu thập, nghiên cứu về chứng cứ phải rất chú ý đến tính khách quan của chứng cứ, phải xem xét nội dung các tài liệu có phải xác thực hay không, nó xuất hiện khi nào? ai là người viết, ai là ngưòi quản lý, lưu giữ hay phát hiện ra nó; chứng cứ đó có phản ánh đúng bản chất của sự việc hay không… để xem xét, đánh giá nó như nó vốn có.

– Tính liên quan: chứng phải liên quan trực tiếp, gián tiếp đến vụ việc. Sự liên quan này có thể là trực tiếp, rất dễ nhận ra, nó giúp chúng ta nhận thức ra ngay bản chất, sự thật khách quan của vụ việc dân sự đó.

– Tính hợp pháp: chứng cứ phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên cứu theo trình tự, thủ tục luật định. Ví dụ: chứng cứ phải là một trong các nguồn theo quy định của BLTTDS, phải được giao nộp trong một thời gian luật quy định…

5. Cách thức để giao nộp chứng cứ

Căn cứ Điều 97 Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành quy định như sau:

“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng những biện pháp sau đây:

a) Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử;

b) Thu thập vật chứng;

c) Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;

d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;

đ) Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng;

e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ;

g) Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;

h) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.

2. Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:

a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;

b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;

c) Trưng cầu giám định;

d) Định giá tài sản;

đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;

e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;

g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;

h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;

i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.

3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 2 Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.

4. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ quy định tại các điểm a, g và h khoản 2 Điều này.

Khi Thẩm tra viên tiến hành biện pháp quy định tại điểm g khoản 2 Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.

5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

6. Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.”

Để thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì các đương sự phải tập hợp các tài liệu, chứng cứ hiện có mà bản thân đương sự đang lưu giữ, quản lý và sắp xếp chúng lại theo hệ thống các vấn đề cần phải chứng minh. Nếu có những tài liệu, chứng cứ hiện do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đang nắm giữ, quản lý thì đương sự phải sử dụng các biện pháp để thu thập sau đó tiến hành giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Việc giao nộp chứng cứ của cấc bên đương sự chính là hiện thực hóa nghĩa vụ chứng minh của đương sự.

Nếu sau khi các bên đương sự đã giao nộp chứng cứ thì Thẩm phán phải kiểm tra, xem xét; trong trường hợp thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sỏ để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ.

Trưổc đây, do pháp luật không quy định cụ thể việc giao nộp chứng cứ, nên khi đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ cho Toà án, các Thẩm phán đưa vào trong hồ sơ mà không thể hiện rõ tài liệu đó từ đâu đến, do ai thu, ai nộp gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá các tài liệu đó, và không loại trừ việc gây thất lạc mà không biết. Chính vì vậy, tại khoản 2 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định rõ trách nhiệm của Toà án khi tiếp nhận chứng cứ, đó là khi đương sự giao nộp chứng cứ, Toà án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số trang của tài liệu chứa đựng chứng cú, thời gian nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và đóng dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu trong hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ. Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu gửi đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu cùng tài liệu chứng cứ qua bưu điện, thì Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn, đồng thời phải đọì chiếu tài liệu, chứng cứ theo bản danh mục mà đương sự gửi kèm theo hoặc họ đã liệt kê trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và ghi vào sổ danh mục tài liệu chứng cứ đó. Nếu tài liệu chứng cứ nào còn thiếu theo danh mục thì cán bộ tiếp nhận đơn ghi sổ phải báo cáo ngay cho người phụ trách trực tiếp họặc Chánh án để xác nhận tình trạng thiếu tài liệu, chứng cứ theo danh mục. Đồng thời, Tòa án phải thông báo ngay cho người đã gửi đơn, tài liệu để họ giao nộp bổ sung. Trường hợp đương sự giao nộp chứng cứ tại phiên tòa, phiên họp thì thư ký Tòa án thực hiện việc giao nhận chứng cứ và ghi vào biên bản phiên tòa hoặc biên bản phiên họp. Sở dĩ, việc giao nộp chứng cứ phải làm theo thủ tục nêu trên là nhằm bảo đảm cho tài liệu không bị đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc hành vi thủ tiêu tài liệu, chứng cứ. Đồng thời, nó bảo đảm giá trị pháp lý trong quá trình sử dụng.

Khi đương sự giao nộp cho Toà án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài thì phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp. Nếu đương sự chưa gửi kèm bản dịch tài liệu, chứng cứ đó sang tiếng Việt hoặc đã dịch sang tiếng Việt nhưng bản dịch chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp thì Tòa án không nhận tài liệu, chứng cứ đó. Song, để không gây khó khăn cho người dân, Tòa án phải hướng dẫn cho đương sự là họ phải tiến hành việc dịch tài liệu đó có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và gửi bản dịch cho Toà án.

Giao nộp chứng cứ là một hành vi của đương sự chủ động thực hiện hoặc theo yêu cầu của Toà án, hoặc Viện kiểm sát. Chứng cứ mà đương sự giao nộp có thể do họ đang lưu giữ, nhưng cũng có thể do họ mới thu thập được và giao nộp cho Toà án để thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà pháp luật đã quy định. Do đó, Toà án không được làm thay nghĩa vụ chứng minh của đương sự, bởi nếu như vậy không những Toà án đã vi phạm pháp luật tố tụng dân sự mà còn dễ bị nghi ngờ là không vô tư, khách quan. Song điều đó không có nghĩa là Tòa án thụ động, ngồi chò đương sự cung cấp. Vì vậy, khi thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sỏ để giải quyết thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Tuy nhiên, trong thực tiễn sẽ xuất hiện trường hợp đương sự biết là cơ quan X hoặc công dân Y đang giữ tài liệu, chứng cứ hoặc có khả năng đang giữ tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự không thể yêu cầu hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan hay công dân đó không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho mình thì đương sự có quyền yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ đó. Tòa án phải giải thích cho đương sự biết là họ có quyển yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ để họ thực hiện quyền này.