1. Mở đầu vấn đề

Chính sách là một hệ thống nguyên tắc có chủ ý hướng dẫn các quyết định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố về ý định, và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách thường được cơ quan quản trị thông qua trong một tổ chức. Chính sách có thể hỗ trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan. Các chính sách hỗ trợ trong việc ra quyết định chủ quan thường hỗ trợ quản lý cấp cao với các quyết định phải dựa trên thành tích tương đối của một số yếu tố và do đó thường khó kiểm tra khách quan, ví dụ: chính sách cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Các chính sách tương phản để hỗ trợ việc ra quyết định khách quan thường hoạt động trong tự nhiên và có thể được kiểm tra khách quan…

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, ngoài các loại chính sách pháp luật ngành còn có cả các loại chính sách pháp luật liên ngành. Chính sách pháp luật liên ngành là loại chính sách pháp luật bao quát một số ngành pháp luật nhất định về một hoặc một số nội dung nhất định. Chính sách pháp luật liên ngành chưa được triển khai nghiên cứu đúng mức ở nước ta.

2. Chính sách pháp luật hợp đồng

Hợp đồng là một cam kết giữa hai hay nhiều bên để làm hoặc không làm một việc nào đó trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng thường gắn liền với dự án, trong đó một bên thỏa thuận với các bên khác thực hiện dự án hay một phần dự án cho mình. Và cũng giống như dự án, có dự án chính trị xã hội và dự án sản xuất kinh doanh, hợp đồng có thể là các thỏa ước dân sự về kinh tế hay xã hội.

Hợp đồng có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc quy định các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự, cùng các điều khoản làm thay đổi hay chấm dứt chúng, hợp đồng được lập thành nhiều hình thức khác nhau, như qua lời nói, qua văn bản hoặc qua hành vi cụ thể, trừ khi pháp luật quy định cụ thể trong một số lĩnh vực.

Dựa vào các lĩnh vực xác lập, các loại hợp đồng thường sử dụng hiện nay gồm:

– Hợp đồng lao động;

– Hợp đồng kinh tế;

– Hợp đồng xây dựng;

– Hợp đồng thương mại.

Khái niệm chính sách pháp luật hợp đồng

Trong số các loại chính sách pháp luật liên ngành, trước hết, cần phải nói đến là chính sách pháp luật hợp đồng.

Chính sách pháp luật hợp đông được hiểu là hoạt động có cơ sở khoa học, nhất quán và hệ thống, được dựa trên pháp luật hiện hành của các chủ thể pháp luật và có nhiệm vụ tối ưu hóa cơ chế điều chỉnh pháp luật hợp đồng.

Chính sách pháp luật hợp đồng mang tính chất liên ngành, được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sống của xã hội: trong họp tác quốc tế, trong xây dựng nhà nước, trong điều chỉnh các quan hệ lao động, trong điều chỉnh các quan hệ nẩy sinh trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trong xây dựng nhà ở, trong lĩnh vực quốc phòng…

Dấu hiệu đặc trưng của chính sách pháp luật hợp đồng

Chính sách pháp luật hợp đồng có các dấu hiệu đặc trưng của mình. Đó là: (i) sự kết hợp các quy tắc mang tính mệnh lệnh với các quy tắc quy định; (ii) tính tự nguyện hoạt động của các chủ thể thực hiện hợp đồng; (iii) tính cùng hoạt động của các chủ thể thực hiện hợp đồng; (iv) tính linh hoạt trong hoạt động của các chủ thể thực hiện hợp đồng; (v) tính cùng có lợi và tính tin tưởng trong các quan hệ hợp đồng đang tồn tại; (vi) tính bình quyền của các bên tham gia hợp đồng.

Chính sách pháp luật hợp đồng, một mặt, hướng đến việc nâng cao hiệu quả của các phương tiện và các cơ chế pháp lý, mặt khác, hướng đến việc sử dụng các công cụ pháp lý đã được hoàn thiện để phát triển tối ưu nhất các quan hệ trong các hình thức hoạt động sống khác nhau của xã hội. Cuối cùng, chính sách pháp luật hợp đồng với tư cách một loại chính sách pháp luật được thực hiện trong lĩnh vực pháp luật, tức là được thể hiện trong xây dựng các quan điểm và các chương trình xây dựng pháp luật, và bằng pháp luật, được thể hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật để đưa các quy định của pháp luật vào đời sống.

Tiêu chí phân loại chính sách pháp luật hợp đồng

Chính sách pháp luật hợp đồng, theo thực chất của mình, rất đa dạng.

Dựa vào tính lệ thuộc ngành pháp luật, có thê’ được phân thành: chính sách pháp luật hợp đồng dân sự, chính sách pháp luật hợp đồng lao động, chính sách pháp luật hợp đồng hành chính, chính sách pháp luật hợp đồng kinh tế…

Dựa vào cấp độ thực hiện, có thể được phân thành: chính sách pháp luật họp đồng quốc tế, chính sách pháp luật họp đồng quốc gia, chính sách pháp luật hợp đồng vùng, chính sách pháp luật họp đồng địa phương.

Dựa vào chức năng có thể phân thành: chính sách pháp luật hợp đồng về tổ chức, chính sách pháp luật hợp đồng điều chỉnh và chính sách pháp luật hợp đồng giám sát.

Dựa vào chủ thể xây dựng và thực hiện có thể phân thành: chính sách pháp luật họp đồng do các cơ quan nhà nước ở Trung ương thực hiện; chính sách pháp luật hợp đồng do các cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện; chính sách pháp luật hợp đồng do các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội thực hiện; chính sách pháp luật hợp đồng do các tổ chức phi lợi nhuận thực hiện.

3. Chính sách pháp luật tư

Luật tư là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể dựa trên các quy phạm của luật dân sự. Luật tư là luật liên quan đến quan hệ giữa các cá nhân, hay là đến lợi ích của các cá nhân, chẳng hạn như luật về hợp đồng.

Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.

Việc gọi tên hệ thống pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó, có quan điểm cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là công pháp và tư pháp, quan điểm khác cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định và quan điểm chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật được bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực.

Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật).

Chính sách pháp luật tư là một loại khác của chính sách pháp luật liên ngành. Pháp luật tư ở nước ta phát triển rất nhanh.

Điều đó diễn ra là do lưu thông dân sự phát triển nhanh, vai trò của điều chỉnh pháp luật hợp đồng và của điều chỉnh pháp luật phi tập trung khác được gia tăng, xuất hiện các quy phạm và các chế định pháp luật tư mới, các quan hệ pháp luật tư trở nên phức tạp hơn… Tuy vậy, đê’ đời sống pháp luật tư được phát triển lên trình độ mới về chất đòi hỏi phải có nhiều hơn nữa hoạt động có cơ sở khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế phi nhà nước trong lĩnh vực nói trên, cần phải có chính sách pháp luật trong lĩnh vực pháp luật tư, nói cách khác, cần có chính sách pháp luật tư Việt Nam phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của xã hội Việt Nam.

4. Mục tiêu cơ bản của chính sách pháp luật tư

Mục tiêu cơ bản của chính sách pháp luật tư Việt Nam hiện nay là hoàn thiện pháp luật tư, tối ưu hóa cơ chế điều chỉnh pháp luật tư, điều chỉnh các phương tiện pháp luật tư trong điều kiện mới, trong điều kiện hiện đại hóa đất nước, và cuối cùng, hỗ trợ cho việc thực hiện đầy đủ nhất các quyền và tự do của cá nhân.

Chính sách pháp luật tư như vậy cho phép xác định rõ ràng hơn và vững chắc hơn định hướng phát triển pháp luật tư của nước ta, thực hiện một cách có căn cứ hơn các xu hướng phát triển tiến độ nhất bộ phận pháp luật tư trong hệ thống pháp luật Việt Nam, huy động một cách linh hoạt nhất các nguồn lực của điều chỉnh pháp luật tư để chuyển đời sổng pháp lý đến trạng thái mới, được bảo đảm và tự do hơn.

5. Kết thúc vấn đề

Như vậy, trong số các loại chính sách pháp luật ngành và chính sách pháp luật liên ngành, chính sách pháp luật hình sự là loại chính sách pháp luật được nghiên cứu đầy đủ nhất. Chính sách pháp luật hình sự hướng đến việc tối ưu hóa ngành pháp luật rất quan trọng của pháp luật Việt Nam là pháp luật hình sự. Điều đó được thể hiện ở chỗ chính sách pháp luật hình sự đóng vai trò đặc biệt trong chính sách pháp luật của mọi quốc gia. Bởi vì, thứ nhất, chính tư tưởng về chính sách pháp luật “được khởi nguồn” chính từ chính sách pháp luật hình sự. Bản thân chính sách pháp luật hình sự đặt nền móng, nền tảng cho sự hình, thành chính sách pháp luật nói chung, bởi vì, nhu cầu xuất hiện đầu tiên trong xã hội là nhu cầu trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm vói tư cách là vấn đề có ý nghĩa lớn nhất của xã hội. Thứ hai, tính chất đặc biệt của chính sách pháp luật hình sự gắn liền với những hậu quả “lớn” của nó đối vói người phạm tội (chẳng hạn, với việc quy định hệ thống hình phạt nghiêm khắc, bao gồm cả hình phạt đặc biệt – hình phạt tử hình).

Việc thừa nhận tính ưu tiên hàng đầu của chính sách pháp luật hình sự không có nghĩa là không quan tâm thỏa đáng đến các loại chính sách pháp luật ngành và các loại chính sách, pháp luật liên ngành khác. Chúng tôi cho rằng, cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu chính sách pháp luật hình sự, cần phải tích cực nghiên cứu các loại chính sách pháp luật ngành và các loại chính sách pháp luật liên ngành khác để làm cơ sở cho việc hoàn thiện các ngành pháp luật tương ứng khác của hệ thống pháp luật nước ta. Hơn nữa, cần phải đẩy mạnh nghiên cứu để xây dựng các quan điểm chính sách pháp luật về từng ngành pháp luật cụ thể. Các quan điểm chính sách pháp luật như vậy là các định hướng rõ ràng cho sự phát triển các ngành pháp luật tương ứng.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.