1. Khái niệm về Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

2. Cơ cấu, tổ chức Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại biểu Quốc hội không quá 500 người, bao gồm đại biểu hoạt động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội. Cơ cấu, tổ chức Quốc hội bao gồm:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Quốc hội thành lập các cơ quan chuyên môn gồm:

(1) Hội đồng Dân tộc.

(2) Ủy ban Pháp luật.

(3) Ủy ban Tư pháp.

(4) Ủy ban Kinh tế.

(5) Ủy ban Tài chính, Ngân sách.

(6) Ủy ban Quốc phòng và An ninh.

(7) Ủy ban Văn hoá, Giáo dục.

(8) Ủy ban Xã hội.

(9) Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

(10) Ủy ban Đối ngoại.

Ngoài ra, Quốc hội có thể thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết hoặc báo cáo, dự án khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội hoặc có nội dung liên quan đến lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc và nhiều Ủy ban của Quốc hội; điều tra làm rõ về một vấn đề cụ thể khi xét thấy cần thiết.

Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đoàn đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tổ chức để các đại biểu Quốc hội tiếp công dân; tổ chức để các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác, dự kiến chương trình kỳ họp Quốc hội theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương.

Bộ máy giúp việc của Quốc hội gồm Tổng Thư ký Quốc hội do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; Văn phòng Quốc hội và các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm Ban Công tác đại biểu, Ban Dân nguyện, Viện Nghiên cứu lập pháp.

3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội

Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước;

4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;

8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

11. Quyết định đại xá;

12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

15. Quyết định trưng cầu ý dân.

3. Chức năng của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013

Về chức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát hơn trên ba phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền).

Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng khái quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành.

Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt động mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

4. Chức năng giám sát của Quốc hội

Giám sát là việc chủ thể theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Tại điều 69 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, Điều 70, Hiến pháp 2013).

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (khoản 3, Điều 72, Hiến pháp 2013). Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân (khoản 7, Điều 72, Hiến pháp 2013).

Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số (khoản 2, Điều 75, Hiến pháp 2013). Tại khoản 2, điều 76 quy định về quyền giám sát của Ủy ban của Quốc hội là “thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban”.

Về mặt pháp lý, các quy định hiện hành đã chỉ rõ thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, việc thực hiện các nghị quyết, kiến nghị được tăng cường giám sát hiệu quả hơn. Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

5. Các hình thức giám sát của Quốc hội

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền giám sát của mình thông qua nhiều hình thức khác nhau, như: nghe báo cáo của các cơ quan tại các cuộc họp, thực hiện chất vấn trong và ngoài kỳ họp, thực hiện giám sát bằng các đoàn kiểm tra (thường là các đoàn kiểm tra của Ủy ban và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội).

5.1. Về xem xét báo cáo

Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc hội thực hiện chức năng giám sát thông qua việc xem xét, thẩm tra báo cáo công tác hàng năm, 6 tháng 1 lần và báo cáo chuyên đề của Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước. Bên cạnh đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có thể yêu cầu thành viên của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước trực tiếp đến báo cáo, hoặc báo cáo bằng văn bản, hay cung cấp các tài liệu mà Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội quan tâm.

Hàng năm, cuối mỗi nhiệm kỳ, Quốc hội xem xét báo cáo công tác hoạt động năm của Chính phủ. Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tiến hành thẩm tra các báo cáo trước khi trình Quốc hội.

5.2. Giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

Việc giám sát ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tiến hành thường xuyên, nhằm bảo đảm các văn bản pháp luật được ban hành kịp thời, phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Văn bản pháp luật được ban hành phải bảo đảm tính toàn diện, nếu không sẽ “vênh” đối với các văn bản khác. Đồng thời cũng phát hiện những nội dung sai trái của văn bản để kịp thời yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật.

Theo báo cáo “Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2016” của Quốc hội, trong giai đoạn này, “Bên cạnh các văn bản do Quốc hội ban hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã ban hành hơn 200 văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các cơ quan hành chính nhà nước như Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp…”. Ở địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp cũng chú trọng công tác ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản theo thẩm quyền. Theo đó, nhiều văn bản được chính quyền địa phương ban hành để triển khai thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, ví dụ: tại Tuyên Quang có 44 văn bản, Hải Phòng có 19 văn bản, Thanh Hóa có 19 văn bản, Thừa Thiên – Huế có hơn 90 văn bản.

Số lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết mà Hội đồng Dân tộc và Ủy ban Thẩm tra ngày càng tăng lên (riêng nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI thông qua 8 bộ luật, luật, 15 nghị quyết có chứa quy phạm và xem xét thông qua 34 pháp lệnh”.

5.3. Giám sát thông qua hoạt động chất vấn, giải trình

Đây là hình thức giám sát quan trọng của Quốc hội, thể hiện trực tiếp quyền giám sát của Quốc hội, thể hiện rõ nét tính dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Có 2 hình thức chất vấn của đại biểu Quốc hội, đó là chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội và giữa hai kỳ họp Quốc hội. Quốc hội có thể giám sát được hoạt động của các cơ quan nhà nước thuộc đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội thông qua việc trả lời của người bị chất vấn. Từ năm 2013 đến nay, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành một số phiên chất vấn đối với thành viên Chính phủ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội tiến hành tổ chức các phiên giải trình về các lĩnh vực được phân công phụ trách. Thông qua các phiên giải trình, các cơ quan của Quốc hội đã góp phần làm rõ những khó khăn, vướng mắc, đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục, nhằm đẩy mạnh có hiệu quả việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm.

5.4. Thực hiện hoạt động giám sát ở địa phương

Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội dựa trên chương trình giám sát hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế để thành lập các đoàn giám sát hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ, hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương. Tùy theo cấp độ và tính chất của sự việc mà thành lập những đoàn giám sát khác nhau.

Các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương liên quan có trách nhiệm hợp tác chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát; báo cáo và cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác những thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan đến nội dung giám sát theo yêu cầu của cơ quan tiến hành giám sát. Các cơ quan chịu sự giám sát thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm túc những kiến nghị sau giám sát và báo cáo kết quả thực hiện đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Qua giám sát cho thấy, tại một số địa phương đã có sự linh hoạt trong thực hiện chế độ kiêm nhiệm một số chức danh đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, như: Bí thư Chi bộ kiêm Tổ trưởng Tổ dân phố hoặc Trưởng Ban công tác Mặt trận; Trưởng thôn kiêm Thôn đội trưởng; Công an viên kiêm Tổ phó Tổ dân phố… Đồng thời, thực hiện khoán kinh phí hoạt động (tính theo mức lương cơ sở) cho một số tổ chức đoàn thể ở cấp xã, tổ dân phố, gồm: Chi đoàn Thanh niên, Chi hội Liên hiệp Phụ nữ, Chi hội Người cao tuổi, Chi hội Nông dân, Chi hội Cựu chiến binh.

Việc thực hiện chế độ kiêm nhiệm như vậy đã giảm được một phần số lượng người hoạt động không chuyên trách. Theo kết quả tổng kết 2 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị, số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP đã giảm 11.668 người (giảm 1,4%) -Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2016.