1. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đang được các nước đang phát triển sử dụng như một công cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển. Xét về toàn cục thì Cơ chế này là một bước phát triển tiến bộ theo hướng công bằng hơn trong quan hệ thương mại quốc tế.

Các nước đang phát triển đã trở thành nhóm các nước sử dụng nhiều nhất cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO. Tính đến ngày 31-12-1998, các nước đang phát triển dẫn đầu số lượng các vụ kiện (37%) nhiều hơn Mỹ (34%) và EU (21%) và 80% trong số đó kết thúc thắng lợi.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên bốn nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp, phù hợp với mục tiêu bảo toàn các quyền và nghĩa vụ, phù hợp với các hiệp định thương mại có liên quan trên cơ sở tuân thủ các quy phạm của luật tập quán quốc tế về giải thích điều ước quốc tế.

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191

Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB):

Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp. Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Đây là một nguyên tắc mới theo đó một quyết định chỉ không được thông qua khi tất cả thành viên DSB bỏ phiếu không thông qua.

Ban hội thẩm (Panel):

Ban này bao gồm từ 3 – 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể bị tranh chấp trên cơ sở các qui định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn. Kết quả công việc của Ban hội thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên tranh chấp. Trên thực tế thì đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp mặc dù không nắm quyền quyết định.

Các thành viên Ban hội thẩm được lựa chọn trong số các quan chức chính phủ hoặc các chuyên gia phi chính phủ không có quốc tịch của một Bên tranh chấp hoặc của một nước cùng là thành viên trong một Liên minh thuế quan hoặc Thị trường chung với một trong các nước tranh chấp

Cơ quan Phúc thẩm (SAB):

Cơ quan phúc thẩm, một toà án thường trực được thành lập tại vòng đàm phán Uruguay, sẽ xem xét mọi kháng cáo. Tòa án này bao gồm 7 thành viên, trong đó 3 người sẽ tham gia phúc thẩm trong mỗi vụ. Các thành viên này được bổ nhiệm trong 4 năm và không được phép có quan hệ với bất kỳ chính phủ nào. Phạm vi phúc thẩm chỉ giới hạn ở các vấn đề pháp lý được đề cập trong báo cáo của nhóm chuyên gia, và ở các diễn giải pháp lý do nhóm chuyên gia đưa ra. Thời hạn xem xét của cơ quan phúc thẩm không được vượt quá 60 ngày, và được bảo mật. Các báo cáo được soạn thảo mà không có sự tham dự của các thành viên liên quan đến vụ tranh chấp, và các ý kiến được thể hiện trong báo cáo là vô danh (Điều 17 DSU). Khi nhóm chuyên gia hoặc cơ quan phúc thẩm kết luận rằng một biện pháp nào đó là không phù hợp với hiệp định có liên quan, nhóm hoặc cơ quan này cần khuyến nghị thành viên vi phạm phải sửa đổi các biện pháp của mình cho phù hợp với hiệp định của WTO (Điều 19 DSU).

Tuy nhiên, các nước đang phát triển vẫn vấp phải một số khó khăn khi tham gia vào cơ chế quyền lực này, phần lớn xuất phát từ bản thân nội lực của các nước:

Thứ nhất, các nước đang phát triển không có đội ngũ chuyên gia pháp lý có chuyên môn và kinh nghiệm trong việc tham gia xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế và cũng không có khả năng tài chính để đi thuê các chuyên gia phương Tây;

Thứ hai, tâm lý lo sợ rằng nếu đi kiện cáo các nước phát triển thì có khi họ phải chịu thiệt nhiều hơn là được lợi, ‘chưa được vạ thì má đã sưng’. Sự phụ thuộc vào thị trường và các nguồn giúp đỡ về tài chính của phương Tây là một trong những lý do khiến các nước đang phát triển rất ngại va chạm với các nước phát triển và nếu có tranh chấp thì các nước này chủ trương xử lý song phương, kín đáo và thường là sẵn sàng nhượng bộ;

Thứ ba, các nước đang phát triển nhận thức được rằng cho dù họ có thắng kiện và dám dũng cảm áp đặt các biện pháp trả đũa hợp pháp chăng nữa thì cũng không đem lại hiệu quả và có thể có một ảnh hưởng tích cực đến cách cư xử của các nước phát triển;

Thứ tư, tuy tham gia WTO ngay từ khi mới thành lập, nhưng các nước đang phát triển vẫn còn giữ thái độ lưỡng lự trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đa số các nước này cho rằng Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng chỉ là một trong những công cụ của các nước phương Tây sử dụng để ép buộc họ mở cửa thị trường.

Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển, đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gia nhập WTO từ năm 2006, Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị tốt hơn nữa để có thể tận dụng được những quyền lợi chính đáng của mình như những quốc gia thành viên khác. Bình đẳng trong cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là cơ hội để Việt nam hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại của mình, tăng cường uy tín về chất lượng, giá cả hàng hóa-dịch vụ, mặt khác hỗ trợ Việt nam trong bảo vệ quyền lợi thương mại chính đáng trên thương trường quốc tế.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH – BỘ CÔNG THƯƠNG – THANH MAI (Tổng hợp)

Trích dẫn từ: http://www.vcad.gov.vn

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

2. Luật sư, trọng tài thương mại Việt Nam có thể theo kịp khi gia nhập WTO ?

Hoạt động đầu tư, kinh doanh, tranh chấp trong các giao dịch thương mại dự kiến gia tăng mạnh sau khi VN gia nhập WTO. Thế nhưng, 2 dịch vụ pháp lý quan trọng là Luật sư và Trọng tài hiện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho quá trình hội nhập trên.

Theo ông Lê Hồng Sơn, Vụ phó Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp), tính đến nay cả nước đã có 3.918 Luật sư của LVN Group và Luật sư của LVN Group tập sự, tăng tới 187% so với năm 2001.

Mặc dù vậy, số lượng Luật sư của LVN Group hiện có vẫn chưa đủ so với nhu cầu ngày càng tăng của người dân.

Luật sư, trọng tài thương mại Việt Nam có thể theo kịp khi gia nhập WTO ?

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Tỷ lệ Luật sư của LVN Group chỉ mới đạt 1/21.215 người dân, trong khi tỷ lệ này ở Nhật là 1/4.546; Thái Lan: 1/1.526; Singapore: 1/1.000; Mỹ: 1/250…

Có những tỉnh như Kon Tum, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn số lượng Luật sư của LVN Group chỉ có khoảng 3-4 người. Thậm chí, có địa phương như Lai Châu, Điện Biên không có đủ số Luật sư của LVN Group cần thiết để thành lập đoàn Luật sư của LVN Group.

Tại cuộc toạ đàm về tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) đối với nghề Luật sư của LVN Group và trọng tài do Bộ Tư pháp tổ chức tuần qua ở TPHCM, nhiều ý kiến cho rằng điều đáng ngại là chất lượng Luật sư của LVN Group vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập.

Trong tổng số Luật sư của LVN Group hiện có, chỉ có 2.611 người (chiếm gần 67%) đã qua lớp đào tạo nghề Luật sư của LVN Group; số còn lại chưa qua lớp đào tạo hoặc được miễn đào tạo theo quy định.

Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng Văn phòng Luật sư tư vấn Độc Lập, thừa nhận số lượng các Luật sư của LVN Group tinh thông về ngoại ngữ và có trình độ tiếp cận với các hợp đồng thương mại quốc tế gần như chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Phần lớn còn lại hành nghề tư vấn đơn giản hoặc tranh tụng tại toà với khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân trong nước, cá nhân và hộ gia đình.

Nguyên nhân của tình hình trên, theo Luật sư Phạm Thị Vạn Thanh (Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng) có phần do việc đào tạo cử nhân luật hiện còn nhiều bất cập, dẫn đến chất lượng thấp. “Có những sinh viên ra trường mà kiến thức cơ bản hay những khái niệm rất đơn giản vẫn hiểu sai hoặc không biết”, bà Thanh nói.

Cùng quan điểm trên, Luật sư Fred Burke (Chi nhánh Công ty Luật Baker & McKenzie) cho rằng khiếm khuyết nằm ở phương pháp đào tạo theo kiểu “học vẹt” lâu nay trong các trường đại học luật.

“Các sinh viên đã lãng phí thời gian để học thuộc lòng các văn bản luật nhưng đến khi họ tốt nghiệp thì những văn bản này đã hết hiệu lực.

Trong khi đó, nhà trường lại rất ít khi dạy cho sinh viên cách làm thế nào để nghiên cứu các luật mới và phân tích các vấn đề pháp lý, những thứ mà họ sẽ phải làm hàng ngày trong suốt cuộc đời hành nghề của mình”.

Theo Luật sư Fred Burke, biện pháp để cải thiện tình hình là nên cho phép các giảng viên luật được hành nghề Luật sư của LVN Group, vì điều đó sẽ làm cho việc giảng dạy hiệu quả hơn nhiều (Hiện ở Việt Nam, luật không cho phép vì giảng viên là công chức).

“Ngay cả ở các trường luật nổi tiếng thế giới, các giáo sư luật cũng phải bỏ thời gian để tư vấn cho khách hàng riêng” – ông cho biết.

Ông Burke cũng cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm xuất khẩu dịch vụ pháp lý toàn cầu, như Hồng Kông, Singapore, nhưng hiện vẫn còn những trở ngại nhất định.

Ví dụ, dịch vụ pháp lý xuất khẩu hiện vẫn bị đánh thuế giá trị gia tăng 10% trong khi hàng hoá xuất khẩu thông thường khác là 0%. Hoặc quy định của Luật Luật sư về việc thu hồi chứng chỉ Luật sư của LVN Group khi Luật sư của LVN Group không thường trú tại Việt Nam; tiêu chuẩn Luật sư của LVN Group với điều kiện bắt buộc phải là công dân Việt Nam.

“Luật cho phép các hãng luật Việt Nam được thành lập cơ sở hành nghề Luật sư của LVN Group ở nước ngoài, nhưng làm sao họ có thể bố trí Luật sư của LVN Group làm việc ở nước ngoài nếu Luật sư của LVN Group của họ bị mất chứng chỉ hành nghề ngay khi vừa rời khỏi đất nước?”

Nỗi khổ trọng tài

Không chỉ có Luật sư của LVN Group, trọng tài thương mại cũng là vấn đề báo động. Hiện cả nước có năm trung tâm trọng tài thương mại với tổng số trọng tài viên là 136 người.

Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, số vụ việc giải quyết bằng trọng tài hàng năm còn rất khiêm tốn. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) thuộc loại lớn nhất nhưng mỗi năm cũng chỉ xử lý được 20-25 vụ. Các trung tâm khác khoảng 5-7 vụ, thậm chí có trung tâm không có vụ nào.

Đại diện của Vụ Bổ trợ tư pháp cho rằng sở dĩ các doanh nghiệp chưa mặn mà lắm với trọng tài là vì họ chưa biết nhiều về phương thức giải quyết tranh chấp này, kể cả đối với các cơ quan toà án, viện kiểm sát, thi hành án.

Theo Luật sư Lê Công Định, Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TPHCM, trong hoàn cảnh đó lẽ ra các trung tâm trọng tài nên có các chương trình xúc tiến, thậm chí tự tiếp thị, và chủ động học hỏi cách làm của trọng tài các nước, thay vì thụ động hoặc chờ sự hỗ trợ bao cấp của Nhà nước như lâu nay.

Nhiều ý kiến cho rằng những bất cập trong các quy định của luật pháp hiện hành cũng là rào cản đối với hoạt động của trọng tài.

Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong phạm vi “hoạt động thương mại”. Điều này đã làm các trung tâm trọng tài “mất đi” một lượng khách hàng đáng kể trong các lĩnh vực ngoài hoạt động thương mại.

Tiến sĩ Bùi Quang Nhơn, Trưởng Chi nhánh Cần Thơ của VIAC, nêu dẫn chứng chẳng hạn tranh chấp giữa các nhà thầu xây dựng và các ban quản lý dự án là một dạng tranh chấp khá phổ biến hiện nay.

Luật chưa có quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự có yêu cầu trong khoảng thời gian từ lúc thụ lý vụ án cho đến lúc thành lập hội đồng trọng tài. Theo đại diện Vụ Bổ trợ tư pháp, bên bị kiện thường dựa vào “kẽ hở” này để tranh thủ tẩu tán tài sản, chứng cứ vi phạm.

Mặt khác, quy định về căn cứ huỷ quyết định trọng tài có phạm vi quá rộng so với thông lệ quốc tế cũng là một nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cho các doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài.

Nhưng bức xúc nhất vẫn là vướng mắc trong việc thi hành phán quyết trọng tài. Mặc dù theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định trọng tài có giá trị thi hành như một bản án nhưng Pháp lệnh Thi hành án lại không quy định điều này.

“Cơ quan thi hành án hoàn toàn có thể vin vào Pháp lệnh Thi hành án để không thi hành các quyết định trọng tài. Đây là điều làm cho các doanh nghiệp “ớn” nhất khi họ lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp”, Luật sư Phan Thông Anh, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Việt Nam, phát biểu.

Còn Luật sư Nguyễn Văn On, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài thương mại TPHCM, cho biết thậm chí trong một số vụ ngay cả trung tâm trọng tài của ông cũng từng bị đương sự “quỵt” phí trọng tài, hết mấy chục triệu đồng, nhưng cơ quan thi hành án cũng chẳng làm được gì vì… không có cơ chế!

Hiện nay số lượng các Luật sư của LVN Group Việt Nam tinh thông về ngoại ngữ và có trình độ tiếp cận với các hợp đồng thương mại quốc tế gần như chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Nguồn: KTSG

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

—————————————————–

THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:

1. Tư vấn pháp luật lao động;

2.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;

3. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;

4. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;

5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.

6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;

3. Tìm hiểu các quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc

Từ khi tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành lập, Trung Quốc đã nỗ lực không ngừng để thiết lập hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại thông qua những thay đổi về cơ cấu tổ chức và luật pháp và quy trình hài hoà hoá với các quy định của WTO

Bằng những thay đổi này, Trung Quốc có thể làm chi tiết hơn các điều khoản chống bán phá giá của WTO bao gồm cả điều khoản định nghĩa về ngành sản xuất nội địa. Hơn nữa, nhìn chung các biện pháp mang tính thủ tục đã được tăng cường trong hệ thống các biện pháp chống bán phá giá của Trung Quốc.

Cho dù đã có những cải thiện tổng thể hệ thống biện pháp khắc phụcthương mại của Trung Quốc thì vấn thiếu khái niệm về một số thuật ngữ luật quan trọng bao gồm khái niệm “các nhà sản xuất có liên quan”, “tiêu chuẩn nhập khẩu không đáng kể” và các yếu tố điều chỉnh để có sự so sánh công bằng giữa giá thông thường và giá xuất khẩu và một số vấn đề về luật liên quan đến các cam kết về giá và hệ thống các biện pháp đối kháng vẫn đang tiếp tục được giải quyết. Trung Quốc sẽ tiếp tục nhiệm vụ làm minh bạch và cải thiện các quy định thương mại của mình.

Trong nỗ lực gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và do áp lực từ phía các đối tác thương mại, Trung Quốc đang từng bước cải cách và hiện đại hoá hệ thống các luật lệ thương mại của mình. Do Trung Quốc thúc đấy quá trình tự do hoá thị trường sau khi WTO được thành lập nên các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thương mại đã được nới lỏng. Vì vậy Trung Quốc cần bảo hộ các ngành sản xuất nội địa không thể cạnh tranh được với các nhà xuất khẩu nước ngoài và đưa ra các biện pháp để khắc phục thiệt hại mà các doanh nghiệp trong nước phải gánh chịu do thương mại bất bình đẳng. Do đó Trung Quốc đã rất nỗ lực để thiết lập nên hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại trong các quy định thương mại vừa mới được ban hành của mình.

Nguồn luật chính điều chỉnh các mối quan hệ trong ngoại thương của Trung Quốc là Luật Ngoại Thương của CHDC ND Trung Hoa. Luật này có 11 chương bao gồm các điều khoản chung, thương nhân ngoại thương, xuất nhập khẩu hàng hoá và công nghệ, thương mại quốc tế trong dịch vụ, bảo hộ các lĩnh vực khác liên quan đến thương mại như quyền sở hữu trí tuệ, trật tự trong ngoại thương, các cuộc điều tra ngoại thương, biện pháp ngoại thương, xúc tiến ngoại thương, trách nhiệm pháp lý và các điều khoản thi hành. Các quy định về chống bán phá giá thuộc chương về các biện pháp khắc phục ngoại thương.

Để cụ thể hoá các quy định về các biện pháp khắc phục thương mại, năm 1997 Hội đồng nhà nước Trung Quốc đã ban hành các quy định và thủ tục kiện chống bán phá giá và đối kháng, gọi là các quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp của CH DCND Trung Hoa (thường được gọi là Quy định cũ). Khi các quy định này được soạn thảo, trong các quy định liên quan đến chống bán phá giá chỉ duy nhất Trung Quốc là vẫn bảo hộ các doanh nghiệp của mình trong các cuộc điều tra chống bán phá giá do các thành viên của WTO tiến hành. Cho đến tận cuối năm 1997 Trung Quốc mới khởi xướng cuộc điều tra chống bán phá giá đầu tiên đối với giấy in báo. Do vậy, dù các quy định được soạn thảo bằng cách tham khảo Hiệp định các biện pháp đối kháng, chống trợ cấp và chống bán phá giá của WTO thì rất nhiều điều khoản trong đó khá chung chung, hầu như không hướng dẫn về việc áp dụng các quy định vào thực tế như thế nào. Hơn nữa, một số điều khoản trong đó khác với trong các hiệp định của WTO. Trong suốt quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc, một số thành viên WTO lo ngại rằng hệ quả của việc áp dụng các điều khoản này là các cuộc điều tra về các biện pháp khắc phục thương mại mà chính quyền Trung Quốc tiến hành sẽ không phù hợp với các quy định của WTO nếu như Trung Quốc trở thành thành viên của WTO.

Việc Trung Quốc cam kết thay đổi luật và các quy định thương mại theo hướng phù hợp với các Hiệp định của WTO là một phần trong tiến trình gia nhập. Theo đó, Trung Quốc phải bãi bỏ các quy định cũ và ban hành hai quy định mới là “Các quy định về chống bán phá giá” và “Các quy định về chống trợ cấp” bằng cách tách các vấn đề về chống bán phá giá ra khỏi các vấn đề về trợ cấp đối kháng. Các quy định này có hiệu lực từ 01/01/2002 ngay sau khi lộ trình gia nhập vào WTO được Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn. Quy định mới về chống bán phá giá được đưa ra một cách toàn diện và cụ thể với 59 điều khoản trong 6 chương. Các quy định này được chi tiết hoá bởi rất nhiều các quy định tạm thời do MOFTEC và Hội đồng nhà nước về Thương mại và Kinh tế (SETC) ban hành.

Theo Điều 71 Hiến pháp Trung Quốc, đối với các vấn đề thuộc quyền hạn của chính quyền, các bộ, các uỷ ban và các cơ quan ban ngành khác của Nhà nước có thể ban hành các quy định phù hợp với luật quốc gia, các quyết định và chỉ thị mang tính hành chính của Hội đồng nhà nước. Trong thực tế các quy định này tồn tại dưới hình thức các quy định tạm thời do chưa có một luật hay quy định hành chính hiện hành nào phù hợp hoặc do Quốc hội hay Uỷ ban Nhà nước chưa sẵn sàng soạn thảo luật cho một vấn đề cụ thể nhưng các quy định lại trở nên rất cần thiết. Người ta dự định rằng các quy định tạm thời sẽ dần được thay thế bởi các luật cụ thể hay các quy định hành chính.

Theo Nghị quyết của Quốc hội về Cải cách thể chế của Uỷ ban nhà nước và thông báo của Uỷ ban Nhà nước về cơ cấu tổ chức thì Chính phủ Trung Quốc phải xem xét kỹ lưỡng việc cơ cấu lại then chốt vào tháng 03/2003. Do vậy Bộ Thương mại (MOFCOM) được thành lập để đảm nhận trách nhiệm của MOFTEC và SETC, trong đó có vai trò điều chỉnh bán phá giá và trợ cấp. Về thay đổi cơ cấu tổ chức, Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp đã được sửa đổi vào tháng 3/2004 và có hiệu lực từ 01/06/2004. Quy định về chống bán phá giá năm 2004 bao gồm nhiều vấn đề từ xác định việc bán phá giá, tính toán biên độ, xác định thiệt hại, quy trình điều tra, thuế chống bán phá giá, cam kết về giá, rà soát cuối kỳ và thông báo. Vào tháng 10/2003, MOFCOM đã ban hành “Quy định về thiệt hại ngành trong cuộc điều tra chống bán phá giá” và “Quy định về thiệt hại ngành trong cuộc điều tra chống trợ cấp”.

Bài viết này sẽ phân tích hệ thống luật chống bán phá giá của Trung Quốc tập trung vào các vấn đề mang tính quy trình. Để làm được việc này thì Luật Ngoại Thương, Quy định chống bán phá giá, các quy định tạm thời và các quy định của MOFCOM sẽ được đưa ra xem xét. Những quy định mang tính quy trình thuộc các luật và quy định này sẽ được so sánh với Hiệp định chống bán phá giá của WTO để xem xét xem liệu luật và quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc có phù hợp với các quy định của WTO hay không.

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi:1900.0191

a. Đơn xin điều tra và vai trò của các ngành sản xuất nội địa

Luật Ngoại thương của Trung Quốc trao quyền được tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá cho một cơ quan ngang bộ thuộc Hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm về ngoại thương. Theo Nghị quyết của Quốc hội về cải cách thể chế nhà nước và Thông báo của Hội đồng nhà nước về cơ cấu tổ chức thì công việc này đang được MOFCOM đảm nhiệm, cơ quan này có thể tự tiến hành điều tra hoặc điều tra khi nhận được đơn kiện của ngành sản xuất nội địa. Quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc công nhận quyền khởi kiện của một ngành sản xuất nội địa, một cá nhân, một pháp nhân hay một tổ chức có liên quan đại diện cho ngành sản xuất nội địa đệ đơn lên MOFCOM xin tiến hành một cuộc điều tra chống bán phá giá.

Quyền đệ đơn được đề cập trong các quy định tạm thời về Tiến hành điều tra chống bán phá giá. Theo các quy định này thì một đơn kiện phải do một ngành sản xuất nội địa hoặc tổ chức đại diện đưa ra và khi đó cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra chống bán phá giá nếu các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện này có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm hơn 50% tổng sản lượng được sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất trong nước đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện và sản lượng sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất này chiếm ít nhất là 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước. Nếu ngành sản xuất nội địa sụp đổ và kéo theo một số lượng lớn các nhà sản xuất khác thì MOFCOM sẽ xem xét lại vai trò của nguyên đơn bằng các phương pháp thống kê lấy mẫu đang được sử dụng.

Theo các nguyên tắc và quy định tạm thời của Trung Quốc, thuật ngữ “ngành sản xuất nội địa” được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất sn phẩm tương tự ở Trung Quốc hoặc một số nhà sản xuất trong đó có sản lượng sản phẩm chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng sản phẩm đó trên cả nước và “tỷ lệ lớn” này là hơn 50%. Một số nhà sản xuất trong nước sẽ không nằm trong danh sách các nhà sản xuất nội địa nếu các nhà sản xuất này có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm này hoặc chính họ là các nhà nhập khẩu hàng hóa hoặc các sản phẩm tương tự được bán phá giá.

Thêm vào đó, các quy định tạm thời bao gồm cả khái niệm “khu vực sản xuất nội địa vùng”. Theo đó, những nhà sản xuất ở một khu vực nhất định trong nước có thể được coi như một ngành sản xuất riêng biệt (ngành sản xuất nội địa vùng) miễn là họ bán tất cả hoặc hầu hết các sản phẩm tương tự ở khu vực thị trường đó, và các nhà sản xuất ở những khu vực khác của Trung Quốc không đáp ứng đủ nhu cầu về sản phẩm tương tự của thị trường này. Khi xác định một “ngành sản xuất nội địa vùng” như vậy thì phải tính đến cả tình hình bán hàng và nhu cầu với sản phẩm ở trong khu vực đó.

Một vài khía cạnh trong các quy định và luật lệ của Trung Quốc có thể được đưa ra xem xét bằng cách so sánh với luật lệ của WTO. Điểm phân tích đầu tiên là khái niệm ngành sản xuất nội địa. Làm thế nào để định nghĩa khái niệm “ngành sản xuất nội địa” là một vấn đề thiết yếu liên quan đến các vấn đề như vị trí, xác định thiệt hại, phạm vi các loại sản phẩm chịu thuế chống bán phá giá. Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, thuật ngữ “ ngành sản xuất nội địa” dùng để chỉ các nhà sản xuất sản xuất tất cả các sản phẩm tương tự hoặc các nhà sản xuất có sản lượng sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng sản phẩm tương tự sản xuất trong nước. Do thuật ngữ “tỷ trọng lớn” không được định nghĩa trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO nên vẫn có nhiều tranh luận khi thuật ngữ này được dịch ra.

Ví dụ như trong Vụ kiện chống bán phá gía sản phẩm gia cầm của Argentina, Brazil đã kiện rằng do thuật ngữ “a major proportion” cũng giống như “the majority” (có nghĩa là hơn 50%) nên Argentina đã vi phạm quy định của WTO khi cho rằng ngành sản xuất nội địa là những nhà sản xuất có tổng sản lượng chiếm hơn 46% tổng sản phẩm nội địa và thu thập được những số liệu về thiệt hại liên quan đến các nhà sản xuất này.

Chống lại đơn kiện này, Argentina (bên bị đơn), Mỹ và EC (các bên thứ 3) lập luận rằng việc sử dụng thuật ngữ “a major proportion” khác với “the major proportion”, “the major proportion” không nhất thiết phải là một tỷ trọng lớn. Theo họ, “a major proportion” có nghĩa là một tỷ trọng có ý nghĩa quan trọng mà không nhất thiết phải là tỷ trọng lớn. Các lý do mà Hoa Kỳ và EC đưa ra cho việc dịch các thuật ngữ này là:

(i) Thực tế là các nhà soạn thảo ra điều khoản về ngành sản xuất nội địa đã nêu không rõ ràng về thuật ngữ “tỷ lệ 50%” trái với điều 5.4 (tỷ lệ yêu cầu là 50%). Điều 5.4 chỉ ra rằng họ dự định đưa ra một tiêu chuẩn khác.

(ii) Theo điều 5.4, một đơn kiện có thể được coi là đại diện cho ngành sản xuất nội địa thậm chí nếu các nhà sản xuất ủng hộ đơn này có sản lượng sản xuất ra chiếm dưới 50% tổng sản phẩm nội địa. Vì thế cho nên ở điều 4.1, tỷ trọng chủ yếu có thể dưới 50%.

(iii) Điều 4.1 chỉ đề cập đến khái niệm “ngành sản xuất nội địa” và không đặt ra bất kỳ trách nhiệm nào cho các thành viên.

Trong khi khước từ khiếu nại của Mỹ rằng điều 4.1 chỉ đơn thuần là một điều khoản nêu định nghĩa, thì Ban hội thẩm cũng tán thành quan điểm của Mỹ và EC rằng chúng ta được phép định nghĩa “ngành sản xuất nội địa” theo hướng là các nhà sản xuất trong nước mà chiếm giữ tỷ lệ quan trọng, có ý nghĩa trong tổng sản phẩm nội địa.

Vấn đề này cũng đang được đưa ra tranh luận trong các vòng đàm phán Doha. Thí dụ như Nhóm các nước chống bán phá giá đã đưa ra quy định về ngưỡng 50%. Theo nhóm này thì nếu được chấp thuận tỉ lệ này có thể tăng cường tính nhất quán trong việc xác định thiệt hại trong quy trình điều tra chống bán phá giá. Cho dù quy định nào được áp dụng thì Các quy định của Trung Quốc dường như vẫn phù hợp với các quy định của WTO vì tỷ lệ hơn 50% chắc chắn là một tỷ lệ lớn. Quy định này là một minh chứng cho sự rõ ràng về nghĩa trong các điều khoản của WTO.

Điểm phân tích thứ hai là trong khái niệm ngành sản xuất nội địa không đề cập đến phạm vi của các nhà sản xuất. Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép loại trừ các thành viên của mình ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa mà được gọi là “các nhà sản xuất có liên quan”, họ là các nhà sản xuất trong nước có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những nhà nhập khẩu các sản phẩm được cho là bán phá giá. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cho từ “có liên quan” mà sử dụng mối quan hệ với từ “kiểm soát” là tiêu chuẩn chính như sau:

Các nhà sản xuất được cho là có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu chỉ khi (a) một bên trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát bên kia; hoặc (b) cả hai bên đều bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi một bên thứ 3; hoặc (c) cả hai trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát một bên thứ 3 miễn là có cơ sở để tin tưởng hay nghi ngờ rằng ảnh hưởng của mối liên hệ như vậy khiến cho các nhà sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản xuất không liên quan.

Theo các quy định của Trung Quốc, các cơ quan điều tra có thể loại trừ các nhà sản xuất trong nước có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những nhà nhập khẩu sản phẩm được cho là bán phá giá. Tuy nhiên nếu loại trừ quá mức thì sẽ tạo ra sự thiếu nhất quán. Hiệp định của WTO cho phép loại trừ một số nhà sản xuất có liên quan nhất định được đề cập trong Hiệp định chống bán phá giá. Hiệp định này đặt ra 2 điều kiện để được xem là các nhà sản xuất có liên quan: (i) sự tồn tại mối liên hệ kiểm soát; và (ii) bất kỳ lý do nào để nghi ngờ rằng ảnh hưởng của mối liên hệ đó sẽ khiến cho các nhà sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản xuất không liên quan. Trong trường hợp mà việc loại trừ các nhà sản xuất có liên quan là một yêu cầu quan trọng thì trách nhiệm chứng minh liệu các điều kiện này có phù hợp trong một trường hợp cụ thể hay không thuộc về bên cố gắng loại trừ một số các nhà sản xuất nhất định ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa với lý do là có sự tồn tại của mối liên hệ kiểm soát. Có nghĩa là nếu một cơ quan điều tra đang cố gắng giới hạn ngành sản xuất nội địa bằng cách loại trừ một số các nhà sán xuất trong nước nhất định thì cơ quan này không những phải chỉ ra mối liên hệ kiểm soát tồn tại giữa các nhà sản xuất và các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu mà còn phải đưa ra cơ sở cho sự nghi ngờ rằng mối liên hệ này sẽ dẫn tới các cách cư xử khác nhau của họ. Do vậy khi đưa ra quyết định về nhà sản xuất có liên quan nếu cơ quan điều tra bỏ qua việc xem xét điều kiện hoặc đẩy trách nhiệm chứng minh cho các nhà xuất khẩu hoặc cho bên đệ đơn thì họ đã vi phạm các quy định có liên quan của WTO.

MOFCOM có thể định nghĩa thuật ngữ “các nhà sản xuất có liên quan” theo nghĩa rộng hơn trong hiệp định của WTO. Điều này có thể xảy ra khi điều kiện thứ hai không được xem xét tới hoặc khi chuyển giao trách nhiệm chứng minh. Nếu được hiểu theo nghĩa rộng hơn thì bất kỳ nhà sản xuất nào mà không có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu cũng có thể được xem như các nhà sản xuất có liên quan và loại trừ ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa. Trong trường hợp không có điều khoản định nghĩa cho thuật ngữ “ có liên quan” trong luật và các quy định của Trung Quốc (mà trái ngược với hiệp định của WTO) thì sẽ luôn luôn tiềm ẩn khả năng loại trừ quá mức và sự thiếu nhất quán với quy định của WTO.

Điểm thứ ba là điều khoản về ngành sản xuất nội địa vùng trong các quy định của Trung Quốc phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá của WTO ở chỗ là cả hai đều điều chỉnh các yếu tố như nhau (ví dụ như tình hình kinh doanh và nhu cầu) được xem như các tiêu chí để nhận biết một ngành sản xuất nội địa độc lập. Trong thực tế mặc dù hiếm khi được MOFCOM sử dụng nhưng điều khoản này rất phù hợp khi được áp dụng ở một lãnh thổ rộng lớn như Trung Quốc. Theo các quy định của WTO, khi nhận biết một ngành sản xuất nội địa vùng thì thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng chủ yếu với các sản phẩm trong diện nghi vấn được bán để phục vụ cho việc tiêu dùng cuối cùng ở khu vực cụ thể. Các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc vẫn rất chú ý đến điều này khi đưa ra các quyết định.

b. Tiến hành điều tra

Theo các quy định chống bán phá giá của Trung Quốc, trong vòng 60 ngày kể từ khi có đơn kiện, MOFCOM phải xem xét nội dung của đơn, chứng cứ và đơn có do ngành sản xuất nội địa hay đại diện của họ đưa ra hay không, đồng thời quyết định có tiến hành điều tra hay không. Trước khi đưa ra quyết định tiến hành điều tra MOFCOM phải thông báo quyết định này cho chính phủ của nước xuất khẩu. Trách nhiệm thông báo trước này phù hợp với quy định của Hiệp định chống bán phá giá của WTO.

Trong trường hợp ngoại lệ, MOFCOM có thể tiếp tục tự mình tiến hành một cuộc điều tra chống bán phá giá. Để làm được điều này, MOFCOM phải đưa ra các chứng cứ đầy đủ về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố đó. Cơ chế tự điều tra và các điều kiện phải phù hợp với quy định chống bán phá giá của WTO.

Theo các quy định của Trung Quốc, MOFCOM phải kết thúc điều tra khi xảy ra một trong các trường hợp sau:

(i) bên kiện rút đơn

(ii) không có đầy đủ chứng cứ về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố đó.

(iii) biên độ phá giá dưới 2%

(iv) số lượng thực tế và ước tính của hàng nhập khẩu bị bán phá giá hoặc thiệt hại là không đáng kể

(v) các trường hợp khác mà MOFCOM cho là không thích hợp để tiếp tục điều tra chống bán phá giá.

Các căn cứ để kết thúc điều tra có vẻ phù hợp với các quy định chống bán phá giá của WTO trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định mức chuẩn biên độ phá giá tối thiểu là 2%. Tuy nhiên vẫn nảy sinh các tranh luận xung quanh tiêu chuẩn “số lượng nhập khẩu không đáng kể”. Theo quy định của WTO thì nếu lượng hàng hoá bán phá giá nhập khẩu từ một nước nhất định chiếm dưới 3% lượng nhập khẩu hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu thì lượng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá được coi là không đáng kể, và cơ quan điều tra phải chấm dứt quá trình điều tra. Trong Quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc thì mức tiêu chuẩn lượng nhập khẩu 3% này được nêu ra trong Điều 9 về “đánh giá tích lũy về bán phá giá” , trong khi đó một mức tiêu chuẩn như vậy lại không được nêu ra trong Điều 27, điều khoản chung quy định về bất cứ trường hợp nào mà hàng hoá nhập khẩu không đáng kể. Về lý thuyết, người ta có thể nghi ngờ việc MOFCOM sử dụng mức tiêu chuẩn 3% khi đánh giá lượng hàng nhập khẩu bán phá giá là không đáng kể chứ không cộng dồn lượng hàng hoá bán phá giá được nhập khẩu từ nhiều nước. Do vậy nếu MOFCOM tiến hành bất cứ cuộc điều tra nào hoặc không chấm dứt điều tra thì sẽ là vi phạm các quy định của WTO cho dù lượng nhập khẩu hàng bán phá giá từ một nước cụ thể chiếm dưới 3% lượng hàng nhập khẩu tương tự ở Trung Quốc. Tuy nhiên trong thực tế MOFCOM đã chấp nhận mức chuẩn 3% như một mức ngưỡng để xác định lượng hàng nhập khẩu không đáng kể trong mọi trường hợp.

C. Xác định biên độ phá giá

Biên độ phá giá là mức độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của hàng nhập khẩu. Do vậy làm thế nào để so sánh giá xuất khẩu với giá thông thường là một vấn đề quan trọng trong việc xác định biên độ phá giá.

Theo Các quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc, MOFCOM có thể lựa chọn hai phương pháp so sánh sau: cách thứ nhất là so sánh giá thông thường bình quân trọng số với giá trung bình trong tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được (gọi là so sánh “A-to-A”); cách thứ hai là so sánh giá thông thường với giá xuất khẩu dựa trên cơ sở các giao dịch (gọi là so sánh “T-to-T”). Do các mức giá xuất khẩu chênh lệch đáng kể giữa những người mua khác nhau, các khu vực và khoảng thời gian khác nhau nên rất khó để so sánh bằng những phương pháp này, khi đó có thể so sánh giữa giá thông thường bình quân và giá trong những giao dịch xuất khẩu đơn lẻ (gọi là so sánh “A-to-T). Các điều khoản này có được là do nỗ lực chi tiết hoá và cải thiện các điều khoản trong quy định cũ mà trong đó chỉ đơn giản là so sánh giá xuất khẩu với giá thông thường một cách hợp lý và công bằng.

Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trong các trường hợp ngoại lệ các cơ quan điều tra có thể áp dụng phương pháp so sánh A-to-T. Nếu sử dụng phương pháp này thì cơ quan điều tra phải giải thích nguyên nhân tại sao không áp dụng các phương pháp thông thường như A-to-A hoặc T-to-T. Điều này có nghĩa là cơ quan điều tra có trách nhiệm phải chỉ ra một trường hợp ngoại lệ.

Theo Quy định của Trung Quốc thì các cơ quan điều tra có thể chấp nhận phương pháp A-to-T trong các trường hợp ngoại lệ nhưng không có trách nhiệm trong việc đưa ra nguyên nhân. Do vậy trong rất nhiều cuộc điều tra cơ quan điều tra đã đẩy trách nhiệm chỉ ra các trường hợp ngoại lệ sang các nhà xuất khẩu hoặc các nhà sản xuất liên quan tới cuộc điều tra. Hơn nữa theo các quy định về chống bán phá giá của WTO thì Ban hội thẩm của WTO chỉ có thể xác định rằng thông tin mà cơ quan điều tra đưa ra có chính xác và các đánh giá của họ về sự việc đó có công bằng và khách quan hay không. Do vậy nếu WTO tranh luận về việc áp dụng phương pháp A-to-T của MOFCOM thì bên khiếu nại sẽ không những phải chỉ ra rằng không có trường hợp đặc biệt nào mà còn phải chỉ rằng đánh giá về sự việc của MOFCOM (tức là phán quyết của MOFCOM là không tồn tại trường hợp đặc biệt nào) là không công bằng và thiếu khách quan. Đây là trách nhiệm nặng nề cho các nhà xuất khẩu hoặc sản xuất liên quan đến cuộc điều tra chống bán phá giá. Nếu như MOFCOM áp dụng phương pháp A-to-T mà không giải thích tại sao các phương pháp so sánh thông thường không được áp dụng để làm làm rõ việc giá xuất khẩu chênh lệch đáng kể giữa những người mua, những khu vực và khoảng thời gian khác nhau, thì điều này là vi phạm các quy định của WTO.

Một vấn đề khác trong hệ thống luật của Trung Quốc là cho dù đã sửa đổi những Quy định cũ nhưng hệ thống luật này vẫn không chỉ rõ chúng ta phải xem xét những nhân tố điều chỉnh nào khi so sánh một cách công bằng giá thông thường và giá xuất khẩu. Xem xét vấn đề này, Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã nêu rõ các nhân tố khác nhau về thời gian và cấp độ giao dịch khi so sánh. Hiệp định còn giải quyết vấn đề chuyển đổi tiền tệ và sự biến động của tỷ giá hối đoái. So sánh cũng cho thấy rằng Quy định cũ của Trung Quốc có một nguyên tắc khá đơn giản rằng “giá xuất khẩu và giá thông thường của một sản phẩm xuất khẩu sẽ được so sánh công bằng và hợp lý với điều kiện là các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng so sánh về giá. Các nhân tố này là gì và làm thế nào để xem xét chúng là những câu hỏi mà các cơ quan điều tra của Trung Quốc đang băn khoăn. Sự cân nhắc này có thể không phù hợp với các quy định của WTO.

D. Các cam kết về giá

Trong suốt quá trình điều tra chống bán phá giá, một nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hóa có đề xuất với MOFCOM một cam kết nhằm thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hoá bán phá giá. Cam kết này được gọi là “cam kết về giá”. Điều khoản Cam kết về giá của Trung Quốc định nghĩa như sau:

Thuật ngữ “Cam kết về giá” được đề cập đến trong các quy định này là cam kết một cách tự nguyện của các nhà xuất khẩu và các nhà sản xuất với MOFCOM, họ hưởng ứng cuộc điều tra chống bán phá giá bằng cách thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hóa đang được điều tra chống bán phá giá để được MOFCOM chấp thuận đình chỉ hoặc chấm dứt điều tra.

MOFCOM có thể đưa ra đề xuất cam kết về giá nhưng không được ép buộc các nhà xuất khẩu chấp thuận đề xuất đó. Thực tế là việc các nhà xuất khẩu hoặc các nhà sản xuất không đưa ra một cam kết về giá hoặc không chấp thuận một cam kết về giá được đề xuất có thể làm ảnh hưởng đến sự chính xác của cuộc điều tra, việc xác định bán phá giá và biên độ phá giá. Nếu MOFCOM cho rằng đề xuất cam kết về giá do các nhà xuất khẩu đưa ra có thể chấp nhận được thì MOFCOM có thể quyết định đình chỉ hoặc kết thúc điều tra chống bán phá giá mà không cần áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay áp thuế chống bán phá giá. Quyết định đình chỉ hoặc kết thúc điều tra phải được công bố. Nếu MOFCOM không chấp thuận đề xuất cam kết về giá thì MOFCOM phải đưa ra được lý do không chấp thuận cho các nhà xuất khẩu có liên quan. Nếu cơ quan điều tra không có kết luận sơ bộ khẳng định có hiện tượng bán phá giá và việc bán phá giá này gây thiệt hại thì sẽ không có các cam kết về giá.

Cho dù cuộc điều tra bị đình chỉ hay kết thúc thì MOFCOM vẫn có thể tiếp tục điều tra chống bán phá giá và xác định thiệt hại theo yêu cầu của nhà xuất khẩu hoặc nếu chính cơ quan này thấy cần thiết phải như vậy. Căn cứ vào kết quả của cuộc điều tra, cam kết về giá sẽ tự động chấm dứt nếu kết luận cuối cùng là không có việc bán phá giá hoặc không có thiệt hại, nếu kết luận là ngược lại thì cam kết vẫn có hiệu lực. MOFCOM có thể yêu cầu một trong số các nhà xuất khẩu chấp thuận cam kết về giá định kỳ cung cấp thông tin và tài liệu liên quan tới việc thực hiện cam kết về giá và xác minh những thông tin và tài liệu này. Những yêu cầu của MOFCOM là cần thiết để giám sát tình hình thực hiện các cam kết này.

Bên cạnh những điều khoản này thì trong các quy định và luật lệ của Trung Quốc có rất nhiều các điều khoản chi tiết về quy trình cam kết về giá. Hầu hết các quy định này không mâu thuẫn với Hiệp định của WTO vì chúng điều chỉnh những vấn đề về quy trình mà Hiệp định không đề cập tới.

Tuy nhiên có hai khía cạnh mà Quy định của Trung Quốc không phù hợp với quy định của WTO. Thứ nhất là trong các quy định tạm thời về cam kết giá thì MOFCOM có thể chỉ chấp thuận các đề xuất đưa ra bởi các nhà xuất khẩu hợp tác hiệu quả trong suốt quá trình điều tra. Theo Hiệp định của WTO, cam kết về giá đưa ra không nhất thiết phải được chấp thuận nếu cơ quan điều tra cho rằng sự chấp thuận này là không hợp lý hoặc vì lí do “chính sách chung” và khi từ chối thì cơ quan điều tra phải đưa ra lý do cho các nhà xuất khẩu và cho họ cơ hội đóng góp ý kiến.

Thiếu đi một chuẩn mực cho việc xác định rằng thế nào là “hợp tác hiệu quả” và không có sự áp dụng phù hợp cho các trường hợp thực tế nên sẽ rất khó khăn để nhận biết rằng lý do để từ chối một đề xuất cam kết về giá là thiếu “sự hợp tác hiệu quả” có phù hợp với quy định của WTO hay không. Thêm vào đó nếu cơ quan điều tra của Trung Quốc không đưa ra cho các nhà xuất khẩu lý do từ chối hoặc không cho họ cơ hội để đưa ra ý kiến, thì sẽ càng vi phạm các quy định của WTO. Trong văn bản trả lời các câu hỏi của Mexico tại cuộc họp của Uỷ ban về thực tiễn chống bán phá giá, Trung Quốc đã giải thích rằng nếu một công ty không hợp tác trong quá trình điều tra thì sẽ rất khó khăn để xác định rằng liệu cam kết về giá của công ty đó có được giám sát hiệu quả hay không. Vì vậy Trung Quốc thấy rằng sẽ là không phù hợp nếu chấp thuận những đề xuất như vậy. Tuy nhiên lý do này đưa ra là không thuyết phục do không có sự tương quan cần thiết giữa cách cư xử của các công ty trong suốt quá trình điều tra và quá trình thực hiện cam kết. Hơn nữa điều 8.6 của Hiệp định chống bán phá giá cũng đã đưa cho cơ quan điều tra chống bán phá giá các công cụ giám sát hữu hiệu đối với các nhà xuất khẩu không hợp tác, chẳng hạn như quyền thu thập thông tin từ các nhà xuất khẩu và áp dụng các biện pháp tạm thời, sử dụng thông tin tốt nhất sẵn có trong trường hợp có sự vi phạm cam kết.

Thứ hai là theo Quy định chống bán phá giá của Trung Quốc, nếu các nhà xuất khẩu vi phạm các thỏa thuận về cam kết giá thì cơ quan điều tra của Trung Quốc có thể tiếp tục cuộc điều tra dựa trên các thông tin sẵn có tốt nhất và quýêt định áp dụng các biện pháp tạm thời và áp thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố lên các sản phẩm nhập khẩu trong vòng 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời, miễn là trước khi vi phạm cam kết các sản phẩm nhập khẩu không bị áp thuế có hiệu lực hồi tố. Quy định “áp dụng hiệu lực hồi tố 90 ngày” này về cơ bản là phù hợp với các quy định của WTO.

Các Quy định tạm thời về cam kết giá quy định thêm rằng nếu trong kết luận cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức thấp hơn mức đặt cọc trong kết luận sơ bộ, thì khoản chênh lệch phải được hoàn lại. Điều khoản này phù hợp với nguyên tắc bồi hoàn theo Hiệp định chống bán phá giá.

Tuy nhiên vấn đề nghiêm trọng về sự thiếu nhất quán với các quy định của WTO là ở đoạn sau của quy định này cho biết “nếu trong kết luận cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức cao hơn mức đặt cọc trong kết luận sơ bộ thì khoản chênh lệch này vẫn bị đánh thuế.”

Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trong trường hợp vi phạm cam kết về giá thì cơ quan điều tra có thể áp dụng các biện pháp tạm thời với nguồn thông tin sẵn có tốt nhất. Trong những trường hợp này, mức thuế chính thức áp dụng cho các sản phẩm tiêu dùng không quá 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp tạm thời phải phù hợp với Hiệp định. Một điều khoản khác của WTO quy định rằng “nếu thuế chống bán phá giá chính thức cao hơn thuế tạm thời đã thu thì mức chênh lệch sẽ không phải nộp bổ sung”. Điều khoản này không có ngoại lệ khi vi phạm cam kết về giá.

Từ các quy định này của WTO, có thể kết luận rằng trong trường hợp vi phạm cam kết về giá, bất kỳ khoản thu bổ sung nào đối với các khoản chênh lệch (nếu thuế chống bán phá giá chính thức cao hơn mức thuế tạm thời đã thu) sẽ không được coi là khoản thuế chính thức phù hợp với Hiệp định của WTO. Việc thu bổ sung như vậy sẽ dẫn tới sự vi phạm Hiệp định của WTO.

Quả thực là rất khó tìm ra một chính sách nào phù hợp để thu những khoản chênh lệch như vậy từ nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất vi phạm cam kết. Thật không đúng khi các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất vi phạm cam kết bị ngăn cản làm việc này do việc truy thu thuế có hiệu lực hồi tố. Các nhà xuất khẩu và sản xuất biết rằng trong trường hợp vi phạm họ phải phụ thuộc vào sự bất lợi của những thông tin sẵn có và vì vậy không có sự truy thu thuế có hiệu lực hồi tố nào có thể làm họ nản lòng thêm. Nói cách khác việc ngay lập tức áp mức thuế tạm thời trên cơ sở các thông tin sẵn có tốt nhất là đủ để chống lại việc vi phạm các cam kết. Chúng ta chỉ nên áp dụng thêm biện pháp truy thu thuế có hiệu lực hồi tố đối với các nhà xuất khẩu và sản xuất vi phạm cam kết mà hầu như không thể bào chữa được.

Kết luận

Hệ thống luật pháp hiện đại của Trung Quốc từ sau khi bắt đầu cải cách năm 1978 đã được hơn 25 năm. Các quy định khắc phục thương mại của Trung Quốc chỉ bắt đầu hình thành sau khi WTO được thành lập. Trong suốt khoảng thời gian ngắn ngủi này, Trung Quốc đã rất nỗ lực để thiết lập nên hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại của mình thông qua những sự thay đổi về luật pháp và cơ cấu tổ chức. Trong khi sự cải thiện tổng thể hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại của Trung Quốc là một bằng chứng rõ ràng thì vẫn thiếu các định nghĩa về một số thuật ngữ luật chủ yếu và một số vấn đề về luật vẫn cần được giải quyết và làm rõ. Tất nhiên sự im lặng trong luật và quy định của Trung Quốc về bản chất là không vi phạm các nghĩa vụ của WTO. Ở nhiều phần trong các luật và quy định của Trung Quốc như Điều 142 phần Các nguyên tắc chung của Luật dân sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Điều 9 trong Quy định về các vụ kiện hành chính trong thương mại quốc tế, nêu ra rằng các luật trong nước của Trung Quốc phải được hiểu theo cách phù hợp nhất với các giao ước quốc tế. Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc thường xuyên thể hiện rằng họ rất sẵn lòng tuân theo các quy định của WTO khi không có điều khoản tương ứng nào ở các luật trong nước. Theo tuyên bố về nguyên tắc hiểu các luật trong nước và cách diễn đạt ý chí chính trị, Trung Quốc sẽ tiếp tục làm sáng tỏ và cải thiện các quy định thương mại.

Dường như với sự thành lập của MOFCOM, Trung Quốc đã hoàn thành các cải cách về tổ chức trong hệ thống các giải pháp khắc phục thương mại. Như một tổ chức mới chịu trách nhiệm về các giải pháp khắc phục thương mại, Bộ sẽ chấp thuận áp dụng các quy định mang tính thủ tục thay thế các quy định tạm thời do MOFCOM và SETC ban hành. Trong quá trình này, các vấn đề được đưa ra trong bài viết này sẽ phải được giải quyết thích đáng để hệ thống luật minh bạch hơn và phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế.

Trên cơ sở quy mô của nền kinh tế Trung Quốc và tầm ảnh hưởng của các chính sách khắc phục thương mại của Trung Quốc, vấn đề này là thiết yếu và không chỉ tác động tới các doanh nghiệp và người tiêu dùng nội địa Trung Quốc mà còn tới hầu hết cộng đồng kinh doanh trên thế giới.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH – BỘ CÔNG THƯƠNG – LÊ DUY

Trích dẫn từ: http://www.qlct.gov.vn

————————————————

DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:

1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;

2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;

3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;

4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;

5. Tư vấn thành lập công ty liên doanh tại Việt Nam;

6. Dịch vụ tư vấn Cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài;

4. Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu tiên của Việt Nam tại WTO

Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)[1]. Tư cách Thành viên của WTO cho phép Việt Nam tham gia vào một sân chơi bình đẳng, tiếp cận với thị trường hàng hoá, dịch vụ của các Thành viên khác của WTO trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch và dựa trên luật lệ. Đặc biệt, tư cách Thành viên cũng đem lại cho Việt Nam cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm chống lại những vi phạm của các Thành viên khác[

Không lâu sau thời điểm gia nhập, ngày 1/2/2010, theo thủ tục quy định tại Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSU), Việt Nam đã gửi yêu cầu tham vấn cho Hoa Kỳ về một số biện pháp mà nước này áp dụng đối với các sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam, mở đầu vụ tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại WTO[3]. Ngày 7/4/2010, sau các cuộc tham vấn bất thành, Việt Nam đệ trình lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm (Panel) giải quyết các khiếu kiện của mình[4]. Việt Nam yêu cầu Panel tuyên bố Hoa Kỳ vi phạm Hiệp định về chống bán phá giá của WTO ở bảy nội dung khác nhau[5]. Ngày 19/5/2011, Panel của WTO đã chính thức công bố Báo cáo giải quyết tranh chấp về vụ khiếu kiện[6].

Căn cứ nội dung của Báo cáo và xét đến thời điểm hiện tại, có thể coi vụ kiện tôm là một thắng lợi của Việt Nam, tuy chưa phải là một thắng lợi trọn vẹn và chung cuộc[7]. Một mặt, bên cạnh việc ủng hộ đa số các nội dung khiếu kiện của Việt Nam (nội dung 1, 2, 3, 4, 5) trong đó đặc biệt là khiếu kiện về biện pháp Quy về không, Báo cáo của Panel cũng bác bỏ hoặc không xem xét 2 nội dung khác (nội dung 6 và 7). Mặt khác, từ thời điểm Báo cáo được công bố, theo quy định của DSU, cả Hoa Kỳ và Việt Nam còn có thời hạn 60 ngày để kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp có kháng cáo như vậy, Báo cáo của Panel sẽ được xem xét lại bởi Cơ quan phúc thẩm (AB) và vụ kiện sẽ còn kéo dài cho đến thời điểm DSB thông qua báo cáo của AB.

Là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam tham gia một cách chủ động và thắng lợi tại WTO, vụ kiện tôm cần được nghiên cứu một cách kịp thời nhằm rút ra những bài học cần thiết cho quá trình hội nhập nói chung và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp nói riêng của Việt Nam tại WTO trong thời gian tới. Bên cạnh việc nghiên cứu các nội dung tranh chấp đã được đặt ra và được phân xử trong vụ kiện, việc tìm hiểu các vấn đề có tính chất thủ tục mà Việt Nam đã gặp phải và giải quyết trong vụ kiện cũng hết sức cần thiết.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Luật sư bào chữa tại tòa án ?

Luật sư tư vấn & bào chữa tại tòa án – Ảnh minh họa

I. Quy chế nước đang phát triển: tham gia với chế độ đối xử khác biệt và đặc biệt hay với tư cách chủ động và bình đẳng?

1. Tính kém hiệu quả của chế độ đối xử khác biệt và đặc biệt dành cho các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Giống như hầu hết các Hiệp định khác của WTO, Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp cũng có các quy định đối xử đặc biệt và khác biệt (Special and Defferentiel Treatment – SDT) dành cho các nước đang phát triển (CNĐPT). Các quy định này có thể được tìm thấy trong từng giai đoạn giải quyết tranh chấp, từ giai đoạn tham vấn, thành lập Panel đến giai đoạn xem xét bởi Panel, bởi AB hay trong giai đoạn thông qua và thực thi các khuyến nghị và quyết định của DSB. Chúng được xây dựng nhằm giúp CNĐPT khắc phục hai trở ngại chính khi tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO: trở ngại về tiềm lực tài chính, kinh tế và trở ngại về năng lực, kinh nghiệm tố tụng tại WTO[8].

Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO cho thấy các quy định SDT của DSU là không hiệu quả, rất ít được viện dẫn thành công bởi CNĐPT[9]. Điều này được giải thích bởi ba nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, đại đa số các quy định SDT của DSU chỉ mang tính chất tuyên bố, thiếu tính chi tiết và không có cơ chế đảm bảo sự thực thi. Thứ hai, một số quy định nếu không có những hạn chế này thì lại nhằm giải quyết những vấn đề không thực sự là mối quan tâm, hay những khó khăn thực tế của CNĐPT. Thứ ba, các quy định SDT không đề cập đến các quyền, lợi thế về nội dung của CNĐPT trong vụ tranh chấp. Chúng chỉ nhằm mang đến một số những thuận lợi, lợi thế về mặt thủ tục. Vì vậy, việc sử dụng chúng có thể tạo lên những bất lợi về dư luận cho CNĐPT.

Trong khuôn khổ Vòng đàm phán Doha hiện thời[10], giữa những đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, có khá nhiều đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả của các quy định SDT dành cho CNĐPT[11]. Tuy nhiên, có rất ít trong chúng đạt được sự đồng thuận của các nước Thành viên[12].

Đứng trước thực tế nêu trên, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để CNĐPT có thể sử dụng một cách hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, đặc biệt khi đối mặt với họ trong một vụ tranh chấp là một nước phát triển có tiềm lực kinh tế, nhân lực cũng như kinh nghiệm tố tụng nổi trội hơn hẳn?[13]. Bên cạnh những ý kiến nhấn mạnh đến việc phải tăng cường và sử dụng thường xuyên chế độ SDT, nhiều ý kiến cho rằng, CNĐPT thay vì tìm kiếm một sự đối xử ưu đãi và khác biệt, cần chủ động tham gia một cách bình đẳng trên cơ sở tận dụng triệt để những cơ hội có được cả trong và ngoài các quy định của DSU[14]. Ủng hộ cho quan điểm này, một số nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng, có nhiều nước trong CNĐPT đã sử dụng khá thường xuyên và thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, bảo vệ tốt những lợi ích thương mại của họ ngay cả trong các tranh chấp với các cường quốc thương mại hàng đầu như Hoa Kỳ, EU…[15]

2. Vụ kiện Tôm của Việt Nam: một ví dụ về sự tham gia chủ động và bình đẳng vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã yêu cầu và được các Thành viên coi là “một nước đang phát triển với thu nhập thấp và nợ nước ngoài cao”[16]. Với tư cách này, Việt Nam đã nhận được một số đối xử “linh hoạt” nhất định. Khi đã trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam cũng có quyền viện dẫn các quy định SDT trong các hiệp định của WTO, bao gồm cả Nghị định thư về giải quyết tranh chấp.

Tại vụ kiện Tôm, trong cả giai đoạn tham vấn, thành lập Panel lẫn trong quá trình xem xét bởi Panel, Việt Nam đã không viện dẫn hay yêu cầu áp dụng bất kỳ một quy định SDT của DSU. Ngoài ra, rất đáng lưu ý là trong toàn bộ Báo cáo của Panel, cụm từ “nước đang phát triển” nhằm chỉ Việt Nam đã không hề xuất hiện. Từ thực tế này, có thể nhận định rằng, ngoài việc là nước chủ động khởi kiện, Việt Nam còn thực hiện vụ kiện với tư thế hoàn toàn bình đẳng vớiHoa Kỳ, cường quốc thương mại số một của WTO.

Nhận định trên đây không nhằm loại trừ việc nghiên cứu và tìm kiếm những khả năng Việt Nam vận dụng chế độ SDT trong tương lai. Kinh nghiệm của một số nước trong CNĐPT cho thấy, mặc dù có những hạn chế cố hữu, các quy định SDT trong DSU vẫn có thể được áp dụng thành công, đặc biệt khi nước đang phát triển là bị đơn trong vụ tranh chấp. Chẳng hạn, trong trường hợp cần có thêm thời gian thích đáng cho việc chuẩn bị hồ sơ vụ kiện, CNĐPT có thể yêu cầu áp dụng điều 10.12 của DSU cho phép khả năng kéo dài thời hạn thủ tục tham vấn. Tương tự như vậy, nếu là nước thua kiện có nghĩa vụ phải thực thi phán quyết, họ cũng có thể viện dẫn quy định tại điều 21.2 của DSU để yêu cầu trọng tài hoặc cân nhắc nội dung, mức độ của biện pháp phải thực thi, hoặc kéo dài thời hạn được coi là “hợp lý” để thực thi phán quyết của DSB[17].

II. Mối quan hệ Nhà nước – Tư nhân: vai trò của doanh nghiệp, tiếng nói của chuyên gia và các tổ chức dân sự

1. Vai trò của doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp

Trên phương diện pháp lý, các tranh chấp được giải quyết tại GATT trước đây, cũng như tại WTO hiện nay là các tranh chấp giữa các chính phủ. Tuy vậy, trên thực tế đứng sau các chính phủ trong mỗi vụ tranh chấp lại là những doanh nghiệp (DN) với những lợi ích thương mại cụ thể. Xuất phát từ các hoạt động thương mại mang tính quốc tế của mình, các DN hàng ngày sống với các quy định pháp luật, thực tiễn hành chính của các chính phủ nước ngoài. Trong đại đa số các trường hợp, chính họ người phát hiện ra những biện pháp bảo hộ, những hành vi vi phạm của chính phủ nước ngoài và yêu cầu chính phủ của họ can thiệp để đối phó với các vi phạm đó khi cần thiết. Khi vụ tranh chấp được đưa ra WTO, các DN trở thành đối tác của chính phủ: họ cung cấp chứng cứ, lập luận pháp lý cho các cơ quan của chính phủ để theo đuổi vụ kiện. Đặc biệt, xu hướng ngày càng nhấn mạnh đến vấn đề cung cấp chứng cứ, thực hiện nghĩa vụ chứng minh của thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO một cách gián tiếp đã làm tăng lên đáng kể vai trò của các DN[18]. Riêng đối với CNĐPT, DN còn có vai trò rõ nét hơn, thể hiện ở việc họ đóng góp cùng nhà nước nguồn kinh phí, giới thiệu và cung cấp nguồn nhân lực chuyên gia, tư vấn và Luật sư của LVN Group trong mỗi vụ kiện.

Tại hầu hết các cường quốc thương mại, từ khá sớm đã hình thành những cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của nhà nước với xã hội dân sự nói chung và khối DN nói riêng trong giải quyết các tranh chấp quốc tế về thương mại[19]. Các nghiên cứu thực nghiệm tại CNĐPT được coi là thành công nhất trong việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng đi đến kết luận là cơ chế hợp tác hiệu quả giữa nhà nước với DN và các hiệp hội DN là một trong những nhân tố tiên quyết đảm bảo sự thành công[20].

Thực tế trong vụ kiện tôm của Việt Nam, vai trò của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) đã được thể hiện một cách rất tích cực ngay từ giai đoạn các DN chế biến, xuất khẩu tôm của Việt Nam phải đối mặt với các biện pháp điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ từ đầu những năm 2000[21]. Chính VASEP đã là chủ thể chủ động đề xuất đưa vụ kiện tôm ra WTO. Trong quá trình theo đuổi vụ kiện, vai trò đóng góp tài chính, giới thiệu chuyên gia và Luật sư của LVN Group cho Chính phủ Việt Nam của VASEP cũng được thể hiện rõ.

Tuy vậy, vụ kiện tôm cũng đã cung cấp một bài học đắt giá cho các DN Việt Nam, cho thấy sự cần thiết tăng cường nhận thức và tính chủ động của các DN trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Trong vụ kiện này, tại nội dung khiếu kiện thứ 6 của mình, Việt Nam yêu cầu Panel tuyên bố Hoa Kỳ đã vi phạm điều 6.10.2 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO khi Hoa Kỳ đã giới hạn các DN Việt Nam được lựa chọn để điều tra riêng rẽ.

Trong phần phản bác của mình, Hoa Kỳ lập luận rằng theo quy định tại điều 6.10.2 Hiệp định chống bán phá giá, Hoa Kỳ chỉ có nghĩa vụ điều tra riêng rẽ đối với DN không được lựa chọn ban đầu nhưng đã tự nguyện cung cấp thông tin để có thể xem xét điều tra. Theo Hoa Kỳ, trong quá trình tiến hành các rà soát hành chính đang bị khiếu kiện, đã không có DN Việt Nam nào không được lựa chọn nhưng vẫn tự nguyện cung cấp thông tin như theo quy định tại điều 6.10.2[22]. Chấp nhận lập luận này của Hoa Kỳ và sau khi khẳng định Việt Nam không đưa ra được bằng chứng trái ngược, Panel đã bác khiếu kiện của Việt Nam[23]. Như vậy, nội dung khiếu kiện duy nhất của Việt Nam bị bác trong vụ kiện Tôm đã được giải thích là xuất phát từ hành vi thụ động từ các DN Việt Nam.

Nhìn một cách khái quát, sự thụ động của các DN, vai trò hạn chế của các hiệp hội DN, ngành hàng Việt Nam có thể được giải thích bởi hai lý do cơ bản. Một mặt, đại đa số các DN Việt Nam là DN vừa và nhỏ, sự hiểu biết và kinh nghiệm giao thương quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm đối phó với các tranh chấp quốc tế còn hạn chế. Mặt khác, xét về phương diện quản lý nhà nước, sự liên kết giữa các DN, ngành hàng cũng cần một khung pháp luật phù hợp[24]. Điều này cho thấy, việc ban hành một văn bản ở tầm một đạo luật về hội, đặc biệt có nội dung điều chỉnh về các hiệp hội, ngành hàng là điều cần thiết.

Vai trò của các DN, các hiệp hội DN, ngành hàng, đặc biệt mối quan hệ giữa các chủ thể này với các cơ quan nhà nước trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế hiện được đề cập chủ yếu trong một chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ năm 2005[25]. Do ban hành từ trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, Chỉ thị đã có những nội dung trở nên lạc hậu. Chẳng hạn, Chỉ thị mới chỉ nhấn mạnh đến các tranh chấp thương mại tại nước ngoài, chưa đề cập hợp lý đến việc giải quyết các tranh chấp tại các tổ chức quốc tế như WTO. Mặt khác, Chỉ thị cũng chưa thiết lập được một cơ chế phối hợp chung giữa các cơ quan nhà nước với các DN, các hiệp hội DN. Đặc biệt, vì là một chỉ thị của Thủ tướng, nhiều nội dung của văn bản chỉ mang tính chất điều hành, giá trị quy phạm thấp. Những hạn chế trên đây cho thấy, Việt Nam cần có một văn bản có tính quy phạm, có giá trị pháp lý cao để giải quyết thích đáng cơ chế phối hợp giữa các DN, hiệp hội DN, ngành hàng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đối phó với các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và các tranh chấp tại WTO nói riêng.

2. Tiếng nói của chuyên gia, các tổ chức dân sự

Khác với các DN, các tổ chức dân sự phi chính phủ không có lợi ích thương mại trực tiếp trong các vụ tranh chấp tại GATT 1947 trước đây, cũng như tại WTO hiện nay. Xuất phát từ tiền đề các tranh chấp này là các tranh chấp giữa các chính phủ mà trong cả thời kỳ của GATT 1947 cũng như trong thời gian đầu của WTO, xã hội dân sự nói chung, các cá nhân, các tổ chức phi chính phủ nói riêng đã không, hoặc có tiếng nói rất hạn chế, trong quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này đã và đang tiếp tục có những thay đổi quan trọng tại WTO[26]. Từ thực tiễn xét xử của mình, AB đã từng bước dỡ bỏ những hạn chế, thậm chí khuyến khích sự tham gia tích cực hơn của xã hội dân sự, đặc biệt của các tổ chức phi chính phủ, thông qua cơ chế gọi là amicus curiae[27].

Động thái trên đây của AB ngày càng gặp phải sự phản ứng từ các nước thành viên của WTO, đặc biệt từ CNĐPT. Ngoài việc cho rằng, amicus curiea không có cơ sở pháp lý trong DSU, như vậy việc chấp nhận chúng như diễn giải của AB là một hành vi tiếm quyền của cơ quan này, CNĐPT cho rằng, việc chấp nhận rộng rãi amicus curiae đem lại rất nhiều bất lợi cho họ[28]. Thứ nhất, việc chấp nhận rộng rãi amicus curiae có nghĩa là chấp nhận sự can thiệp tích cực hơn của các tổ chức phi chính phủ vào quá trình giải quyết tranh chấp của WTO. Trên thực tế, đa số các tổ chức phi chính phủ quan trọng đều có nguồn gốc từ các nước phát triển, và hầu như chỉ các tổ chức này mới có đủ khả năng tài chính, nhân lực để tham gia. Thứ hai, những vấn đề mà các tổ chức phi chính phủ thường quan tâm là bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động hay các tiêu chuẩn thương mại liên quan đến bảo vệ sức khỏe con người, của động thực vật. Đây lại chính là những vấn đề mà CNĐPT rơi vào vị thế yếu và thường bị chỉ trích. Thứ ba, vì những lý do trên, chấp nhận sự tham gia rộng rãi hơn của xã hội dân sự vào cơ chế giải quyết tranh chấp đồng nghĩa với việc tạo thêm sự bất cân xứng vốn đã sâu sắc trong tương quan giữa CNĐPT với các nước phát triển. Những tranh cãi về vai trò của amicus curiae đang tiếp tục diễn ra tại Vòng đám phán Doha, bất chấp án lệ của AB vẫn tiếp tục được viện dẫn, áp dụng.

Trong vụ kiện Tôm, tiếng nói của chuyên gia đã đóng góp một phần đáng kể vào thắng lợi quan trọng nhất của phía Việt Nam. Trong vụ kiện này, để chứng minh phương pháp Quy về không đơn giản (simple zeroing) được sử dụng bởi USDOC trong cuộc điều tra bán phá giá ban đầu cũng như các đợt rà soát hành chính tiếp theo đối với các DN Việt Nam (nội dung 1), Việt Nam đã trình lên Panel Bản khai có tuyên thệ của một chuyên gia phân tích thương mại có tên là Michael Ferrier, người từng làm việc cho USDOC trong phân tích cơ sở dữ liệu trên máy tính dùng để áp dụng phương pháp Quy về không. Bản khai có tuyên thệ của ông Michael Ferrier đã được Panel chấp nhận như một phần trong hồ sơ của Việt Nam, được dùng như một chứng cứ hữu hiệu để Panel đi đến kết luận là phương pháp Quy về không đơn giản trên thực tế đã được áp dụng bởi phía Hoa Kỳ[29]. Tương tự, liên quan đến nội dung khiếu kiện 2 của Việt Nam về phương pháp Quy về không về mặt pháp lý (zeroing “as such”), Bản khai có tuyên thệ của ông Micheal Ferrier cũng được Panel sử dụng như một chứng cứ quan trọng, làm cơ sở cho kết luận về sự vi phạm của Hoa Kỳ[30]. Đặc biệt, liên quan đến nội dung này, để bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ cho rằng Bản khai có tuyên thệ của ông Micheal Ferrier không được coi là một “ý kiến của chuyên gia” nhằm chứng mình phương pháp Quy về không “as such” của Hoa Kỳ, Panel đã trích dẫn các án lệ của AB, theo đó Panel có quyền sử dụng các tài liệu trong hồ sơ của các bên trong vụ tranh chấp bất chấp mục đích ban đầu của người cung cấp chứng cứ đó[31].

Diễn tiến trên của vụ kiện chứng tỏ Việt Nam đã nhận định và vận dụng có hiệu quả vai trò của chuyên gia trong vụ tranh chấp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của vụ kiện. Tuy nhiên, nhìn về dài hạn, Việt Nam cần theo dõi chặt chẽ diễn biến của Vòng đàm phán Doha liên quan đến vấn đề amicus curiae. Đặc biệt, khi các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ cao đối với các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường hay các tiêu chuẩn xã hội ở các thị trường nước ngoài, Việt Nam cần đứng về phía quan điểm chung của CNĐPT về vấn đề này. Một cách chủ động hơn, Việt Nam cần có những cơ chế hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức dân sự hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ người lao động, bảo vệ môi trường. Mặc dù chưa liên quan đến một vụ tranh chấp thương mại cụ thể, nhưng những sự kiện diễn ra vừa qua trong quan hệ với Quỹ bảo vệ động vật hoang dã thế giới (WWF) ở Châu Âu là một kinh nghiệm cho vấn đề này[32].

III. Bên thứ ba trong vụ tranh chấp: ý nghĩa của việc tích cực tham gia và ảnh hưởng từ sự tham gia của các Thành viên khác

1. Ý nghĩa của việc tích cực tham gia vào các vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba

Việc một nước tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp của WTO với tư cách là bên thứ ba được hình thành từ thực tiễn của GATT trước đây và hiện được quy định khá chi tiết trong DSU của WTO[33]. Theo quy định của DSU, một nước Thành viên có thể tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp giữa các nước Thành viên khác từ giai đoạn tham vấn[34], trong giai đoạn xem xét bởi Panel[35]cũng như trong giai đoạn phúc thẩm[36]. Điều kiện để một nước có thể trở thành bên thứ ba trong một vụ tranh chấp được quy định khá đơn giản. Trong giai đoạn tham vấn, nước yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba phải có một “lợi ích thương mại đáng kể” trong vụ tranh chấp, và yêu cầu tham gia phải được bên được yêu cầu tham vấn chấp thuận. Trong giai đoạn xem xét bởi Panel, nước yêu cầu tham gia chỉ cần có “lợi ích đáng kể” trong vụ kiện và không cần phải có sự chấp thuận của các bên trong vụ tranh chấp. Một nước đã yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba trong giai đoạn xem xét bởi Panel có thể tiếp tục tham gia với tư cách đó trong giai đoạn phúc thẩm. Trên thực tế, tuyệt đại đa số các yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba đều được chấp nhận, thậm chí trong nhiều trường hợp, nước yêu cầu chỉ cần viện lý do “có lợi ích mang tính hệ thống” trong vụ kiện[37].

Với tư cách là bên thứ ba, nước Thành viên tham gia có quyền thể hiện ý kiến của mình đối với các vấn đề được đề cập trong vụ tranh chấp bằng cách gửi văn bản đến Panel, hoặc phát biểu trực tiếp tại các phiên họp, được nhận các văn bản đệ trình của các bên tranh chấp cho phiên họp đầu tiên của Panel. Các ý kiến của bên thứ ba phải được gửi cho các bên tranh chấp và phải được phản ảnh trong báo cáo của Panel[38]. Trong giai đoạn phúc thẩm, ý kiến của bên thứ ba cũng phải được lắng nghe bởi AB. Trong trường hợp bên thứ ba thấy rằng quyền lợi thương mại của mình bị ảnh hưởng bởi biện pháp đang là đối tượng của vụ tranh chấp, họ có quyền khởi động một vụ kiện mới theo trình tự quy định tại DSU[39].

Căn cứ các quy định của DSU, quyền can thiệp với tư cách bên thứ ba được quy định là nhằm cho phép các nước không phải các bên trong một vụ tranh chấp có thể bảo vệ được các lợi ích của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước thường sử dụng cơ chế can thiệp này với những mục đích khác nhau.

Thứ nhất, việc một nước tham gia với tư cách bên thứ ba có thể nhằm theo dõi một cách có hệ thống quá trình giải thích, áp dụng các quy định của WTO không những bởi các nước Thành viên khác, mà còn bởi cả các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.

Thứ hai, bằng việc tham gia với tư cách bên thứ ba, đặc biệt trong giai đoạn Panel và phúc thẩm, một nước Thành viên có thể hy vọng ảnh hưởng đến quan điểm và phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Theo quy định của DSU, quan điểm và quyền lợi của bên thứ ba phải được cân nhắc đầy đủ trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, cơ chế tham gia với tư cách bên thứ ba cũng có thể được sử dụng, đặc biệt bởi CNĐPT, các nước mới gia nhập WTO như một biện pháp tập dượt, làm quen với các thủ tục, quy trình tố tụng giải quyết tranh chấp tại tổ chức này.

Theo thống kê chính thức tại WTO, cho đến nay, Việt Nam đã tham gia vào 9 vụ kiện khác nhau với tư cách là bên thứ ba[40]. Với một khoảng thời gian ngắn kể từ thời điểm trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam có thể được coi là một trong những nước tích cực nhất tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba. Phần lớn các vụ việc mà Việt Nam tham gia đều liên quan đến việc sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại như biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp[41]. Đặc biệt, trong đó có những vụ việc giải quyết trực tiếp các khiếu kiện về biện pháp Quy về không của Hoa Kỳ[42]. Khi tham gia với tư cách bên thứ ba vào hàng loạt các vụ việc nêu trên, Việt Nam đã hầu như không bày tỏ thái độ về nội dung các vụ tranh chấp thông qua việc đưa ra các ý kiến bằng văn bản hay phát biểu tại các phiên tranh tụng trực tiếp. Duy nhất, trong vụ việc Hoa Kỳ kiện chế độ thuế nhập khẩu bổ sung của Ấn Độ, Việt Nam đã bày tỏ quan điểm cả trong giai đoạn xem xét bởi Panel[43] và trong giai đoạn phúc thẩm[44].

Ngoài ý nghĩa làm quen với quy trình tố tụng tại WTO, sử dụng các cơ hội để thể hiện quan điểm trong các vụ việc mà Việt Nam đánh giá có “lợi ích đáng kể”, việc tích cực tham gia của Việt Nam với tư cách bên thứ ba vào các vụ tranh chấp hẳn đã có những tác dụng tích cực trong quá trình thực hiện vụ kiện Tôm, đặc biệt liên quan đến nội dung khiếu kiện phương pháp Quy về không của Hoa Kỳ. Thực tế, trong các lập luận của mình, Việt Nam đã viện dẫn nhiều lần thực tiễn xét xử của WTO về biện pháp Quy về không. Về phần mình, Panel cũng thường xuyên sử dụng các án lệ của AB của WTO để đưa ra các kết luận có lợi cho Việt Nam liên quan đến nội dung khiếu kiện này[45].

Có thể nói, việc nắm bắt và sử dụng những án lệ phong phú tại WTO về biện pháp Quy về không của Hoa Kỳ đã đóng góp một phần rất quan trọng vào một chiến thắng được dự báo trước của Việt Nam trong vụ kiện Tôm[46].

2. Ảnh hưởng từ sự tham gia của các nước Thành viên thứ ba khác trong vụ tranh chấp

Vấn đề tham gia với tư cách bên thứ ba cũng có thể được nhìn nhận từ một góc độ khác trong vụ kiện Tôm. Thực tế, đã có 7 Thành viên khác tham gia vào vụ kiện với tư cách là bên thứ ba, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mê-hi-cô, Thái Lan và EU[47].

Liên quan đến các nội dung khiếu kiện 1, 2 và 3 của Việt Nam về việc áp dụng phương pháp Quy về không của Hoa Kỳ, tất cả những Thành viên là bên thứ ba có đưa ra ý kiến đều ủng hộ quan điểm của Việt Nam và đề nghị Panel đi theo những án lệ đã có của AB có lợi cho quan điểm của Việt Nam. Như đã thấy, Panel đã xét cho Việt Nam thắng kiện trong cả ba nội dung này.

Tuy nhiên, liên quan đến nội dung khiếu kiện thứ 4, về việc Hoa Kỳ áp dụng thuế suất toàn quốc (country wide rate), trừ Trung Quốc ủng hộ quan điểm của Việt Nam, tất cả các bên thứ ba có ý kiến đều ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ[48]. Tại nội dung này, Panel đã kết luận ủng hộ quan điểm của Việt Nam và Trung Quốc.

Những diễn tiến trên đây của vụ kiện cho phép đi đến một số nhận định sau:

Thứ nhất, đối với các nội dung khiếu kiện về phương pháp Quy về không của Hoa Kỳ, mặc dù kết luận của Panel có cơ sở vững chắc từ án lệ của AB, sự ủng hộ rộng rãi của các bên thứ ba trong vụ kiện hiển nhiên là một lợi thế đối với Việt Nam. Một sự ủng hộ như vậy về nguyên tắc cũng sẽ có lợi trong quá trình giám sát, đảm bảo thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp sau này.

Thứ hai, sự ủng hộ rộng rãi của các bên thứ ba đối với các nội dung khiếu kiện về phương pháp Quy về không của Hoa Kỳ là điều hoàn toàn dễ hiểu: hầu hết các Thành viên của WTO đều đã hoặc sẽ có thể tiếp tục là đối tượng bị thiệt hại từ phương pháp này trong lĩnh vực điều tra chống bán phá giá. Tuy nhiên, đối với nội dung khiếu kiện thứ 4 của Việt Nam, vì vấn đề thuế suất toàn quốc (country wide rate) trong chống bán phá giá chỉ được đặt ra đối với những nước bị đối xử là nền kinh tế phi thị trường, tiêu biểu nhất là Trung Quốc và Việt Nam, do vậy, các nước không những không có lợi ích khi phản đối biện pháp của Hoa Kỳ, mà thậm chí họ còn có lợi ích để ủng hộ biện pháp đó. Trên thực tế bản thân họ cũng có thể đang đối xử với Việt Nam (và Trung Quốc) một cách tương tự như Hoa Kỳ đang làm. Như vậy, sự tham gia của bên thứ ba vào vụ tranh chấp là có tác động hai mặt, tuỳ thuộc vào việc các bên thứ ba đó có quan điểm ủng hộ hay phản bác đối với mỗi bên trong vụ kiện.

Thứ ba, nếu nhìn từ lợi ích của nguyên đơn, sự tham gia của bên thứ ba trong vụ kiện, ngay cả khi có được sự ủng hộ của họ, cũng có thể đem lại bất lợi cho việc giải quyết vụ việc. Sự ủng hộ rộng rãi của nhiều bên thứ ba đứng về quan điểm của nguyên đơn sẽ tạo nên sức ép lớn đối với bị đơn, tạo nguy cơ họ phải nhượng bộ nhiều hơn so với trường hợp nếu họ chỉ phải nhượng bộ riêng với nguyên đơn. Do vậy, trong giai đoạn tham vấn, bị đơn sẽ khó chấp nhận một giải pháp dựa trên thương lượng như mục đích ưu tiên của DSU[49] và vụ việc có khả năng lớn hơn phải được giải quyết bằng thủ tục tố tụng kéo dài. Trong giai đoạn thông qua báo cáo giải quyết tranh chấp, sức ép từ việc phải nhượng bộ lớn hơn cũng đưa đến khả năng bị đơn sẽ kháng cáo cao hơn. Tương tự, trong giai đoạn thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp, khả năng bên bị đơn thua kiện sửa đổi lut lệ, tuân thủ với quyết định giải quyết tranh chấp sẽ thấp hơn, xuất phát từ việc họ phải tính toán lợi ích mà họ phải từ bỏ cả trong với quan hệ của bên thứ ba tham gia vào vụ việc, đặc biệt nếu bên thứ ba đó chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của họ.

Nhận định thứ ba trên đây có thể có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá diễn tiến tiếp theo của vụ kiện Tôm. Chẳng hạn, từ nhận định này, có thể đi đến giả định rằng nếu Hoa Kỳ kháng cáo báo cáo của Panel, thì kết luận của Panel về nội dung khiếu kiện thứ 4 của Việt Nam sẽ là vấn đề được ưu tiên trong đơn kháng cáo. Hơn nữa, ngay cả khi Hoa Kỳ không kháng cáo, khả năng Hoa Kỳ chấp nhận sửa đổi luật lệ, từ bỏ việc áp dụng thuế suất chung toàn quốc trong điều tra bán phá giá đối với các DN từ nền kinh tế phi thị trường là rất thấp, xét những hệ quả đối với Hoa Kỳ trong mối quan hệ thương mại với Trung Quốc.

IV. Xác định phạm vi và thời điểm khởi kiện: bài học quan trọng từ vụ kiện Tôm

Việc xác định phạm vi của vụ kiện và thời điểm khởi kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi vụ kiện tại WTO. Đây chính là hai trong số những nhân tố tạo nên sự chưa trọn vẹn trong thắng lợi của Việt Nam tại vụ kiện Tôm.

Trên thực tế, các nội dung mà Việt Nam khiếu kiện liên quan các biện pháp của Hoa Kỳ trong đợt điều tra lần đầu, trong các đợt rà soát hành chính và rà soát cuối kỳ của vụ kiện chống bán phá giá tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ. Vì đợt điều tra lần đầu và đợt rà soát hành chính thứ nhất đã hoàn toàn diễn ra trước khi Việt Nam gia nhập WTO[50], các biện pháp do Hoa Kỳ thực hiện vào thời gian đó không thể bị khiếu kiện và xem xét bởi Panel. Đối với đợt rà soát hành chính lần 4[51] và 5[52] cũng như đợt rà soát cuối kỳ[53], vì vào thời điểm Việt Nam khởi kiện ra WTO đều chưa có kết quả cuối cùng, về nguyên tắc cũng không thuộc thẩm quyền xem xét của Panel. Với những lý do này, phạm vi khiếu kiện cũng như các kết luận của Panel chỉ liên quan đến các đợt rà soát hành chính lần 2 và 3 của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, việc có được phán quyết của WTO đối với cả các đợt rà soát thứ 4, 5 và đợt rà soát cuối kỳ mới thực sự có ý nghĩa đối với các DN Việt Nam. Một mặt, vì các quyết định giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có giá trị hiệu lực cho tương lai, việc các DN Việt Nam được giảm hoặc dỡ bỏ thuế bán phá giá trên cơ sở thực thi quyết định giải quyết tranh chấp chỉ có thể được thực hiện từ đợt rà soát lần 4. Mặt khác, theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, các DN Việt Nam sẽ được dỡ bỏ lệnh áp dụng thuế bán phá giá và thoát khỏi vụ kiện nếu trong ba lần rà soát hành chính liên tiếp biên độ bán phá giá của họ được xác định bằng không (0)[54]. Điều này chỉ có thể đạt được khi tính cả đợt rà soát hành chính lần 4.

Có lẽ xuất phát từ bối cảnh trên, Việt Nam đã xác định “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” của Hoa Kỳ là một trong những nội dung khiếu kiện, yêu cầu Panel giải quyết. Nếu có được thắng lợi về nội dung khiếu kiện này, thì các kết luận của Panel sẽ được áp dụng cả với các đợt rà soát hành chính lần 4, 5 cho dù vào thời điểm xem xét, kết quả cuối cùng của các đợt rà soát này chưa được công bố.

Đối mặt với nội dung khiếu kiện này của Việt Nam, Hoa Kỳ cho rằng Panel không có thẩm quyền, với hai lập luận cơ bản: thứ nhất, Việt Nam đã không nêu trong văn bản yêu cầu thành lập Panel “việc tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu kiện” là biện pháp mà Việt Nam khiếu kiện[55]; thứ hai, “việc tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu kiện” không thể được coi là biện pháp có thể bị khiếu kiện và được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO bởi nó đề cập đến những biện pháp trong tương lai[56]. Liên quan đến lập luận thứ nhất, Hoa Kỳ viện dẫn điều 6.2 của DSU, theo đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Panel chỉ được hình thành khi: 1) các nội dung khiếu kiện đã được đề cập đến trong các cuộc tham vấn giữa các bên; 2) văn bản yêu cầu thành lập Panel đã nêu rõ các biện pháp bị khiếu kiện; 3) trong văn bản yêu cầu thành lập Panel đã trình bày một cách ngắn gọn cơ sở pháp lý của các khiếu kiện.

Xem xét lập luận thứ nhất của Hoa Kỳ, Panel nhận định rằng trong văn bản yêu cầu thành lập Panel của Việt Nam, không có dữ kiện nào chứng tỏ Việt Nam đã nêu “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” là một trong những nội dung khiếu kiện[57]. Từ nhận định này, Panel đã từ chối giải quyết nội dung khiếu kiện thứ 7 của Việt Nam về “việc tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu kiện”, mà không cần xem xét lập luận thứ hai của Hoa Kỳ[58].

Như vậy, liên quan đến nội dung khiếu kiện thứ 7, bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện Tôm là việc xác định phạm vi vụ kiện và thời điểm khởi kiện. Vụ kiện rất có thể đã có kết quả trọn vẹn hơn đối với Việt Nam nếu thời điểm khởi kiện được thực hiện sau đợt rà soát hành chính lần 4 của Hoa Kỳ, hoặc đơn yêu cầu thành lập Panel đã nêu rõ “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” là một trong những nội dung khiếu kiện.

Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế, thương mại quốc tế đồng nghĩa với việc tham gia ngày càng phổ biến vào các tranh chấp thương mại quốc tế, xét cả từ phía DN cũng như từ phía Nhà nước. Trong bối cảnh đó, với tư cách là vụ kiện đầu tiên Việt Nam chủ động tiến hành và giành thắng lợi tại WTO, vụ kiện Tôm có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích thương mại cho DN, lợi thế về ngoại giao kinh tế cho Nhà nước, vụ kiện tôm cũng có thể đem lại những kinh nghiệm hữu ích trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, ở nước ngoài cũng như tại WTO trong tương lai.

Vụ kiện Tôm cho thấy, thái độ chủ động chuẩn bị, tích cực tham gia cả từ phía các DN lẫn từ phía các cơ quan nhà nước là yếu tố quan trọng hàng đầu trong giải quyết các tranh chấp. Điều này cũng nhấn mạnh đến nhu cầu tạo dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý phù hợp cho sự liên kết, phối hợp giữa các DN, sự tham gia tích cực của các DN, hiệp hội DN nói riêng cũng như của các tổ chức thuộc xã hội dân sự nói chung cùng với các cơ quan nhà nước phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.

Vụ kiện Tôm cũng cho thấy, để có thể sử dụng tốt cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm bảo vệ những chính sách thương mại quốc gia, đối phó hiệu quả với những chính sách, biện pháp bảo hộ của nước ngoài, việc việc nắm vững và sử dụng linh hoạt các cơ chế tố tụng tại WTO là điều hết sức quan trọng. Về điểm này, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng các án lệ và thực tiễn giải quyết tranh chấp của Cơ quan phúc thẩm của WTO.

Cuối cùng, những phân tích từ góc độ lợi ích của DN cho thấy, để có thể đạt được tất cả những lợi ích từ vụ kiện Tôm, việc khởi động một vụ kiện mới tại WTO nhằm vào các đợt rà soát hành chính lần 4, 5 và đợt rà soát cuối kỳ của Hoa Kỳ nên sớm được xem xét. Về điểm này, có hai khả năng cần được nghiên cứu một cách thấu đáo: hoặc vụ kiện mới sẽ là một vụ kiện tương tự như vụ kiện hiện tại, trên cơ sở tiếp tục sử dụng những yêu cầu và lập luận pháp lý của vụ kiện hiện tại nhưng áp dụng cho các đợt rà soát hành chính lần 4, 5 và đợt rà soát cuối kỳ của Hoa Kỳ; hoặc vụ kiện mới sẽ là một sự kéo dài của vụ kiện hiện tại trên cơ sở đưa ra khiếu kiện về “việc tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu kiện” của Hoa Kỳ, với các lập luận pháp lý tương ứng[59]./.

Chú thích:

[1] Xem Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới của nước CHXHCN Việt Nam.

[2] Xem Tờ trình số 150/TTr-CP của Chính phủ ngày 11/11/2006 Về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.

[3]United-State – Antidumping measures on certain shrimp from Viet Nam- Request for Consultations by Viet Nam, Doc. WT/DS404/1, 4 February 2010. Sau đây gọi tắt là vụ kiện Tôm, theo ký hiệu vụ kiện tại WTO là vụ DS404.

[4] DS404, Request for the Establishment of a Panel by Viet Nam, Doc. WT/DS404/5, 9 April 2010.

[5] Các nội dung này bao gồm: 1) Việc Hoa kỳ sử dụng phương pháp Quy về không (Zeroing as applied) để tính biên độ bán phá giá đối với các doanh nghiệp bị điều tra bắt buộc; 2) Phương pháp Quy về không của Hoa Kỳ về mặt pháp lý (as such); 3) Việc Hoa Kỳ sử dụng biên độ bán phá giá theo phương pháp Quy về không để tính mức thuế chung (all others rate); 4) Việc Hoa Kỳ áp dụng mức thuế suất toàn quốc (country wide rate) cho một số doanh nghiệp không bị điều tra hoặc rà soát riêng rẽ; 5) Việc Hoa Kỳ sử dụng các dữ liệu có sẵn bất lợi cho việc tính toán mức thuế suất toàn quốc; 6) Việc Hoa Kỳ giới hạn các doanh nghiệp Việt Nam được lựa chọn để điều tra riêng rẽ (sampling); 7) Việc Hoa Kỳ “tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu kiện” (continued use of challenged practices). Xem: DS404, Report of the Panel, Doc. WT/DS404/R, 11 July 2011, para. 3.1, p.3.

[6] DS404, Report of the Panel, Doc. WT/DS404/R, 11 July 2011.

[7] Xem nhận định của ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch thường trực của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) trên báo điện tử Người lao động ngày 12/7/2011: “Vụ kiện Tôm: mới thắng một nửa”

http://nld.com.vn/20110712112951140p0c1014/vu-kien-tom-moi-thang-mot-nua.htm

[8]FRANÇOIS, Joseph, HORN, Henrik and KAUNITZ, Niklas, Trading Profiles and Developing Country Participation in the WTO Dispute Settlement System, IFN (Research Institute of Industrial Economics) Working Paper No. 730, 2008; BOWN, Chad P., HOEKMAN, Bernard M., Developing Countries and Enforcement of Trade Agreements: Why Dispute Settlement is Not Enough, Journal of World Trade, Vol. 42, 2008, pp. 177-203.

[9] ROESSLER, Friedder, Special and differential treatment of developing countries under the WTO dispute settlement system: http://www.scribd.com/doc/17249044/Special-and-Differential-Treatment-of-Developing-Countries-Under-the-Wto

[10] Vòng đàm phán Doha của WTO được khởi động từ năm 2011, sau rất nhiều thay đổi lịch trình, hiện vẫn trong tình trạng bế tắc. Xem thêm thông tin tại: www.wto.org/english/tratop_e/dda_e/dda_e.htm

[11] Xem các báo cáo của Chủ tịch các Phiên họp đặc biệt của Cơ quan giải quyết tranh chấp: tài liệu WTO -TN/DS/9 ngày 6/6/2003; WTO – JOB(08)81 ngày 18/6/ 2008.

[12] BALÁS, P., Chairing the DSU Negotiations: An Overview, in GEORGIEV, D., and VAN DER BORGHT, K. (edited by), Reform and Development of the WTO Dispute Settlement System , 2006, p.16.

[13] NORDSTROM, Hakan and SHAFFER, Gregory, Access to justice in the wto: a case for a small-claims procedure?, in THOMAS Chantal, TRACHTMAN, Joel P. (Edited by), Developing countries in the WTO legal system, Oxford University Press, New York, 2009.

[14] Xem QURESHI, Asif H., Participation of developing countries in the WTO dispute settlement system, in ORTINO, Federico and PERTESMANN, Ernst-Ulrich (edited by), sđd., Chú thích 13, tr. 494.

[15] SHAFFER, Gregory and al., Brazil’s Response to the Judicialized WTO Regime: Strengthening the State through Diffusing Expertise, ICTSD South America Dialogue on WTO Dispute Settlement and Sustainable Development, Sao Paolo, Brazil 22-23 June 2006.

[16] Xem Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, tài liệu WT/ACC/VNM/48 ngày 27/10/2006, đoạn 6, tr.5.

[17] Năm 1998, theo yêu cầu của Indonesia, Trọng tài được thành lập theo thủ tục quy định tại điều 21.3c đã áp dụng điều 21.1 của DSU để trao cho Indonesia thêm 6 tháng so với “thời hạn hợp lý” nhằm thực thi phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh chấp. Xem: Indonesia – Certain measures affecting the automobile industry, Arbitration under article 21.3 c) of the DSU, doc. WT/DS54/15, 7/12/1998, para. 24.

[18] ALAVI, Amin, On the (Non)-Effectiveness of the World Trade Organization’s Special and Differential Treatments in the Dispute Settlement Process, Journal of World Trade, Vol. 40, 2007, pp. 319-349.

[19] SHAFFER, Gregory C., What’s new in EU trade dispute settlement? Judicialization, public-private networks and the WTO legal order, Journal of European Public Policy, Vol. 13, No 6, 2006 , pp. 832-850.

[20] BOHL, Kristin, Problems of developing country access to WTO dispute settlement, Chicago-Kent Journal of International & Comparative Law, Vol.9, 2009, p. 175.

[21] Để có thêm thông tin, có thể xem: Bao Anh Thai, An analysis of “lessons learned” from “catfish” and “shrimp” anti-dumping cases:

http://www.baolawfirm.com.vn/dmdocuments/an_anylysis_of_lessons_learned_from_antidumping_case.pdf

[22] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.182.

[23] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.183.

[24] Chẳng hạn, xem CATBAGAN Aaron, Rights of Action for Private Non-state Actors in the WTO Dispute Settlement System, Denver Journal of International Law and Policy, Vol. 37, 2009, p. 295.

[25] Chỉ thị số 20/2005/CT-TTg ngày 9/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phòng, chống các vụ kiện thương mại nước ngoài.

[26] STERN Brigitte, L’intervention des tiers dans le contentieux de l’OMC, R.G.D.I.P, Tome CVII-2003, pp. 258-259; VAN DEN BOSSCHE, Peter, NGO involvement in the WTO : A lawyer’s perspective on a glass half-full or half-empty?, Maastricht Faculty of Law Working Paper 2006/10, Maastricht, 2006.

[27] Amicus curiae là một thuật ngữ La-tinh (Bạn của quan toà) diễn tả trường hợp một bên thứ ba trong một vụ tranh chấp gửi đến toà án ý kiến của mình về mặt sự việc hay pháp lý nhằm giúp toà án đưa ra phán quyết cho vụ tranh chấp. Xem ZAMBELLI Mirko, l’AMICUS CURIAE dans le règlement des différends de l’OMC: État des lieux et perspectives, Revue internationale de droit économique, 2005, pp. 199-200.

[28]BERGSTROM Amanda, Imbalance of Power: Procedural Inequities within the WTO Dispute Settlement System, Pacific McGeorge Global Business & Development Law Journal, Vol. 22, 2009, pp. 95-97.

[29] Xem DS404, Báo cáo của Panel, Mục D.2, từ đoạn 7.73 đến đoạn 7.101.

[30] DS404, Báo cáo của Panel, Mục D.3, từ đoạn 7.102 đến đoạn 7.142.

[31] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.114, đặc biệt Chú thích số 170.

[32] Thông tin về vụ việc, chẳng hạn xem: Chu Khôi, Cá tra Việt Nam lại bị chơi xấu, VnEconomy, 19/4/2011:

http://vneconomy.vn/20110419092037741P0C10/ca-tra-viet-nam-lai-bi-choi-xau.htm

[33] FOOTER Mary E., Some aspects of third party intervention in GATT/WTO dispute settlement proceedings, in PETERSMANN Ernst-Ulrich (Edited by), International trade law and the GATT/WTO dispute settlement system, Kluwer law, London-The Hague-Boston, 1997, pp. 213-245.

[34] DSU, điều 4.11.

[35] DSU, điều 10.

[36] DSU, điều 17.4.

[37] BUSCH Marc L., REINHARDT Eric, With a little help from our friends? Developing country complaints and third-party participation, in THOMAS Chantal, TRACHTMAN Joel P. (Edited by), Developing countries in the WTO legal system, Oxford University Press, New York, 2009, pp. 250-251.

[38] DSU, điều 10.2 và 10.3.

[39] DSU, điều 10.4

[40] Xem thống kê tại Mục Dispute cases involving Viet Nam trên tranh Web của WTO:

http://www.wto.org/english/thewto_e/countries_e/vietnam_e.htm

[41] Xem United States – Use of Zeroing in Anti-Dumping Measures Involving Products from Korea (Report of the Panel), Doc. WT/DS402/R, 18 january 2011; European Union – Anti-Dumping Measures on Certain Footwear from China (Request for Consultations by China), Doc. WT/DS405/1, 8 february 2010; China – Countervailing and Anti-Dumping Duties on Grain Oriented Flat-rolled Electrical Steel from the United States (Request for Consultations by the United States), Doc. WT/DS414/1, 20 september 2010.

[42] Xem vụ DS343, DS402 nêu trên.

[43] India – Additional and Extra-Additional Duties on Imports from the United States (Report of the Panel), Doc. WT/DS360/R, 9 june 2008, paras. 563-567.

[44] India – Additional and Extra-Additional Duties on Imports from the United States (Report of the Appellate body), Doc. WT/DS360/AB/R, 30 october 2008, paras. 111-112.

[45] Ví dụ, xem DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.112, chú thích số 136; đoạn 7.119.

[46] Về dự báo thắng lợi của Việt Nam trong vụ kiện Tôm, chẳng hạn xem bài viết “Việt Nam kiện Mỹ ra WTO: khả năng thắng rất cao”, Báo điện tử Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 27/3/2010, tại địa chỉ:

http://dddn.com.vn/2010032310594626cat81/viet-nam-kien-my-ra-toa-kha-nang-thang-rat-cao-.htm

[47] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 1.7.

[48] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.243.

[49] Điều 3.7 của DSU có đoạn: “Một giải pháp thoả thuận mà các bên cùng chấp nhận và phù hợp với các hiệp định có liên quan được biệt ưu tiên”

[50] Điều tra lần đầu được Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) khởi động vào ngày 20/1/2004, kết luận vào ngày 8/12/2004. Ngày 1/1/2005 USDOC chính thức công bố quyết định áp thuế bán phá giá. Đợt rà soát hành chính lần 1 áp dụng cho giai đoạn từ 16/7/2004 đến 31/1/2006, kết luận cho đợt rà soát này được đưa ra vào ngày 12/12/2007. Xem DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.24 và 7.25.

[51] Được áp dụng cho giai đoạn từ 1/2/2008 đến 31/1/2009, kết luận cho đợt rà soát này được công bố ngày 9/8/2010. Xem DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.28.

[52] Được áp dụng cho giai đoạn từ 1/2/2009 đến 31/1/2010. Trong thời gian vụ kiện Tom được xem xét bởi Panel, đợt rà soát này vấn đang được tiến hành. Xem DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.29.

[53] Được bắt đầu từ 4/1/2010, 5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế bán phá giá. Ngày 7/12/2011, USDOC chính thức công bố kết quả rà soát cuối kỳ, theo đó nếu lệnh áp thuế bán phá giá được dỡ bỏ, hiện tượng bán phá giá vẫn tồn tại hoặc tái diễn với biên độ bán phá giá được xác định từ 4,30 đến 25,76%, không thay đổi so với kết quả có được từ lần điều tra ban đầu năm 2004. Xem DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.30.

[54] Điều 351.222 Mục 19 của Bộ luật Liên bang (19 CFR 351.222) của Hoa Kỳ.

[55] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.39.

[56] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 7.39.

[57] Theo Panel, Việt Nam chỉ đề cập đến “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp khiếu kiện” như biện pháp khiếu kiện trong các văn bản gửi Panel sau văn bản yêu cầu thành lập Panel.

[58] DS404, Báo cáo của Panel, đoạn 769-770.

[59] Trong vụ kiện Tôm, Việt Nam đã viện dẫn khá nhiều thành công của EU trong một vụ kiện có nội dung tương tự như nội dung khiếu kiện thứ 7 của Việt Nam. Xem vụ United-States – Continued existence and application of zeroing methodology, Report of the Appellate Body, Doc. WT/DS350/AB/R, 4 february 2009. Một vụ kiện tương tự khác do Brazil khởi động và giành thắng lợi ngay trước vụ kiện Tôm của Việt Nam, xem United States – Anti-Dumping Administrative Reviews and Other Measures Related to Imports of Certain Orange Juice from Brazil – Report of the Panel, doc. WT/DS382/R, 25/5/2011.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ – THS. NGUYỄN TIẾN VINH – Khoa Luật, Đại học Quốc gia TPHCM

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

5. Doanh nghiệp không đạt GMP- WTO: Sẽ phải chuyển đổi

Thời điểm chốt áp dụng GMP – WTO đối với các DN sản xuất dược phẩm đã được Bộ Y tế gia hạn từ tháng 12/2006 đến tháng 7/2008. Tuy nhiên, đến nay nhiều DN vẫn không thực hiện đuợc yêu cầu đúng lộ trình. DĐDN có cuộc trao đổi với TS Trương Quốc Cường – Cục trưởng Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế xung quanh vấn đề này.

– Thưa ông, trong tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn hiện nay cộng với khó khăn vướng mắc về giải phóng mặt bằng, quỹ đất, cơ chế tài chính… của các DN sản xuất thuốc tân dược, liệu thời hạn áp ụng GMP – WHO có được “lùi” thêm không?

Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu tiên của Việt Nam tại WTO

Luật sư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

Lãnh đạo Bộ Y tế quyết định không gia hạn thêm lộ trình áp dụng GMP-WHO đối với các cơ sở sản xuất thuốc tân dược. Tuy nhiên, để bảo đảm duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN và đặc biệt để tránh ảnh hưởng đến tình hình cung cầu dược phẩm trong giai đoạn hiện nay, Cục Quản lý Dược đang đề nghị lãnh đạo bộ để các DN được tiếp tục sản xuất theo nguyên tắc cụ thể: Trong giai đoạn hiện nay, để các cơ sở có thời gian chuyển đổi từ GMP-ASEAN sang GMP-WHO, Bộ Y tế đồng ý để các DN tiếp tục duy trì sản xuất trên cơ sở duy trì nguyên tắc, tiêu chuẩn GMP-ASEAN.

TS Trương Quốc Cường – Cục trưởng Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế

Đối với các DN chưa đạt GMP đang xây dựng nhà xưởng theo GMP-WHO: Bộ sẽ cho phép các cơ sở tiếp tục sản xuất bằng phương thức gia công các thuốc tân dược còn SĐK trên dây chuyền sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP-WHO.

Bộ Y tế sẽ kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động sản xuất của các DN này để bảo đảm phải thực hiện và tuân thủ đúng các nguyên tắc nêu trên của Bộ Y tế.

– Vậy đến thời điểm này còn bao nhiều DN chưa áp dụng được GMP-WHO, thưa ông?

Tính đến thời điểm hiện nay, ngoài 67/93 cơ sở sản xuất thuốc tân dược đã đạt GMP-WHO, thì có 6 cơ sở GMP-ASEAN đã nộp hồ sơ đăng ký GMP-WHO chờ kiểm tra, 8 cơ sở GMP-ASEAN đang chuyển đổi sang GMP-WHO; chỉ còn 12 cơ sở sẽ và đã cam kết hoàn thành xây dựng nhà máy GMP-WHO vào cuối năm 2008 đầu 2009.

Nếu đến thời hạn nêu trên nếu cơ sở nào không đạt GMP-WHO theo đúng lộ trình sẽ phải chuyển đổi hình thức sản xuất thuốc. Ví dụ như gia công thuốc tại các cơ sở đạt GMP…

– Thưa ông, khi chuyển sang sản xuất trên dây chuyền GMP-WHO thì các lô thuốc còn tồn đọng được sản xuất trên dây chuyền cũ của DN sẽ được xử lý như thế nào?

Theo quy định của Chính phủ, sản xuất thuốc là ngành kinh doanh hàng hóa có điều kiện, do vậy để được phép sản xuất thuốc các cơ sở phải đáp ứng các điều kiện quy định của Bộ Y tế về cơ sở sản xuất và kiểm tra chất lượng từ nguyên liệu đầu vào đến thành phẩm đầu ra. Điều này có nghĩa thuốc sản xuất trên dây chuyền cũ đã đáp ứng về điều kiện quy định của Bộ Y tế và được kiểm tra chất lượng đạt yêu cầu thì vẫn được sử dụng. Tuy vậy, nhu cầu của người sử dụng thuốc đòi hỏi về chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu thuốc ra thị trường quốc tế, Bộ Y tế ban hành quy định về áp dụng nguyên tắc tiêu chuẩn GMP-WHO để các DN nâng cấp nhà xưởng, đầu tư máy móc thiết bị sản xuất, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật bào chế thuốc bảo đảm thuốc được sản xuất có chất lượng và hiệu quả điều trị như mong muốn của người sử dụng, đồng thời ngang hàng với các nước trong khu vực cũng như thế giới.

– Xin cảm ơn ông.

GMP-WHO nghĩa là thực hành sản xuất thuốc tốt theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Theo quy định để đạt được các nguyên tắc, tiêu chuẩn về GMP-WHO, mỗi DN sản xuất dược phẩm phải đạt được các yêu cầu về: Đảm bảo chất lượng; Thực hành tốt sản xuất thuốc; Vệ sinh và điều kiện vệ sinh; Tự thanh tra và thanh tra chất lượng; Yêu cầu về nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu, hồ sơ lưu tài liệu và đặc biệt là phải tự thực hành tốt việc kiểm nghiệm chất lượng.

Theo quy định của cơ quan chức năng, thực hành tốt sản xuất thuốc là một phần của đảm bảo chất lượng, giúp đảm bảo rằng các sản phẩm được sản xuất ra một cách đồng nhất và được kiểm soát theo đúng các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với mục đích sử dụng. Các nguyên tắc trong thực hành sản xuất thuốc tốt trước hết nhằm hướng đến loại bỏ các nguy cơ xảy ra trong sản xuất dược phẩm. Những nguy cơ này được chia làm hai dạng: nhiễm chéo và lẫn lộn. Do đó thực hiện thực hành sản xuất thuốc tốt đòi hỏi tất cả các quy trình sản xuất đều được xác định rõ ràng, được rà soát một cách có hệ thống theo kinh nghiệm và được chứng minh là đủ khả năng sản xuất ra các sản phẩm đạt yêu cầu về chất lượng theo các tiêu chuẩn đã định…

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)