Luật sư tư vấn:

Thực trạng quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam đã có những bước tiến mới so với trước, nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập trong quan điểm xây dựng luật, chưa thể hiện những đặc thù rõ nét so với các khoản vay thông thường khác. Dựa trên đặc thù của một quan hệ hợp đồng thiếu bình đẳng giữa bên thế mạnh và bên yếu thế, tác giả đã tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm, chuẩn mực quy định về cho vay tiêu dùng ở các nước phát triển trên thế giới và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này, đặc biệt là tại các công ty tài chính:

 

1. Bổ sung quy định về trách nhiệm bên vay trong việc đánh giá năng lực tài chính để bảo vệ quyền lợi của bên vay tiêu dùng

ở phương diện bình đẳng quan hệ hợp đồng, pháp luật các nước trên thế giới đều có những quy định riêng để bảo vệ quyền lợi bên vay tiêu dùng. Cụ thể như: 

Tại Anh: Các quy định về cho vay tiêu dùng đều hướng vào sự can thiệp của tòa án nếu thỏa thuận của các bên (hợp đồng) không công bằng, đồng thời ghi nhận quyền được hủy bỏ những thỏa thuận đã ký kết không công bằng đó; 

Liên minh châu Âu: Nghị viện ban hành Nghị định số 2008/48/EC ngày 23/4/2008 về hợp đồng tín dụng tiêu dùng, tại Điều 8 và Điều 23 đề cao nghĩa vụ đánh giá mức độ tín nhiệm của bên vay trước khi ký kết hợp đồng.

Như vậy, minh bạch thông tin tín dụng là yêu cầu bắt buộc, như một nghĩa vụ hợp đồng đối với bên cho vay, được pháp luật các nước đề cao. Các quy định theo Liên minh châu Âu còn đặt ra nghĩa vụ của bên cho vay trong việc đánh giá khả năng tài chính (của bên vay) để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trước khi cho vay. Trường hợp bên vay không có khả năng hoàn trả tiền vay, bên cho vay cũng phải gánh chịu các trách nhiệm liên đới.

Quy định theo pháp luật Việt Nam:

Pháp luật Việt Nam hiện hành không đề cập trách nhiệm này của các tổ chức tín dụng. Bên vay tiêu dùng tự quyết định và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, kể cả khi hợp đồng có những nội dung bất lợi. Đồng nghĩa rằng, bên vay tiêu dùng phải thực hiện nghĩa vụ cho đến khi trả hết nợ theo các cam kết, cho dù họ có khả năng tài chính để thực hiện hay không. Tại các công ty tài chính, hoạt động cho vay gần như không cần đánh giá năng lực của người vay. Thay vào đó là các quy định ràng buộc về mức lãi cao, cũng như các biện pháp đòi nợ gây mất trật tự xã hội.

Có thể thấy, phần lớn người vay tiêu dùng có tài chính hạn hẹp. Lãi suất quá cao sẽ tạo áp lực cho họ khi hoàn trả tiền vay và điều này sẽ dẫn đến tâm lý tránh né, không hợp tác giải quyết tranh chấp với ngân hàng, cơ quan tố tụng. Khi đó, lợi ích của các bên cũng bị xâm hại nghiêm trọng (kể cả đối với các tổ chức tín dụng, vì lý do bên vay không hợp tác trả nợ). Trường hợp này, nguyên nhân chủ yếu là do các tổ chức tín dụng có phần thiếu trách nhiệm khi đánh giá năng lực của bên vay trưóc khi cho vay. Vì vậy, nếu bên vay tiêu dùng không có khả năng hoàn trả tiền vay, lãi suất, pháp luật cần ấn định mức lãi suất nợ quá hạn cố định phù hợp với thời gian có giới hạn, thay vì cho phép bên cho vay được áp dụng lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, theo mức lãi suất được duy trì cho đến khi trả hết nợ.

 

2. Bổ sung quy định ràng buộc nghĩa vụ của bên cho vay trong quan hệ với bên cung ứng dịch vụ, thương mại tiêu dùng

Quan hệ pháp lý giữa thương mại với tín dụng tiêu dùng nhìn chung không được pháp luật hiện hành đề cập. Pháp luật Việt Nam đã nhìn nhân, luật hóa quy định cho phép các công ty tài chính ký hợp đồng mở điểm giới thiệu dịch vụ tại nơi cung ứng thương mại (Điều 6 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN), nhưng lại bỏ ngỏ, tạo ra “khoảng trống” về một mối quan hệ thực chất chia sẻ lợi ích, lợi nhuận của hai đơn vị kinh tế này, nếu họ chủ động “bắt tay” kiếm lợi, đẩy rủi ro về phía bên vay. Quyền lợi bên vay tiêu dùng không được pháp luật bảo vệ trong trường hợp chất lượng hàng hóa, dịch vụ có tài trợ tín dụng từ phía ngân hàng không bảo đảm yêu cầu.

Quy định này (theo pháp luật Việt Nam) có sự khác biệt cơ bản so với quy định của pháp luật cho vay tiêu dùng các nước. Theo đó, tại các nước, trách nhiệm được đặt ra đối với bên cho vay, nếu người vay tiêu dùng khiếu nại, khỏi kiện về chất lượng hàng hóa, dịch vụ với bên cung cấp thì họ cũng phải liên đới chịu trách nhiệm (Xem: Phán quyết của Tòa án tối cao Anh trong vụ kiện giữa ông Durkin đổi với Công ty DSG Retail Limited, năm 2014 về hợp đồng tín dụng tiêu dùng).

Về điều kiện ràng buộc nghĩa vụ giữa hai hợp đồng thương mại và tín dụng, theo luật Việt Nam, chỉ khi các bên có thỏa thuận ghi trong hợp đồng cho vay cụ thể trách nhiệm của tổ chức tín dụng, khi đó mối áp dụng quy định này. Yếu tố chất lượng hàng hóa dịch vụ không bảo đảm đúng cam kết của bên cung ứng (hàng hóa, dịch vụ thương mại) là căn cứ miễn trừ trách nhiệm của bên vay đối với bên cho vay (thỏa thuận này do các bên tự quyết định, trên nguyên tắc không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội – Cụ thể, pháp luật thương mại, ngân hàng không đề cập mối quan hệ giữa hai hợp đồng này, duy nhất theo khoản 1 Điều 120 Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự có điều kiện quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phất sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dần sự phát sinh hoặc hủy bỏ”). Song, không phải lúc nào bên vay tiêu dùng cũng nhận thức đầy đủ, đưa vào hợp đồng cho vay nội dung thỏa thuận ràng buộc nghĩa vụ này. Thực tế cho thấy, trong các hợp đồng cho vay được ký kết nhằm mục đích tiêu dùng, nội dung này không được đề cập, quyền lợi bên vay tiêu dùng vẫn chưa được bảo đảm đúng mực, khi có những rủi ro xảy ra. Nguyên nhân của tình trạng này, như đã đề cập về bản chất, đây là quan hệ giữa bên cho vay mạnh thế (tổ chức tín dụng) với bên yếu thế, mang tính áp đặt qua các hợp đồng mẫu.

Thật vậy, xuất phát từ sự liên kết giữa tổ chức tín dụng cho vay tiêu dùng với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ, hàng hóa thương mại (xu thế tất yếu của nền kinh tế hàng hóa), trách nhiệm của những tổ chức tín dụng này là không thể tránh khỏi nhằm tìm hiểu, đánh giá chất lượng hàng hóa sản phẩm trước khi tài trợ vốn, thay vì trách nhiệm này đương nhiên thuộc về bên vay đồng thời là bên mua hàng. Quy định này còn có ý nghĩa quan trọng, hạn chế sự thông đồng trục lợi giữa bên cho vay với bên cung ứng dịch vụ, hàng hóa thương mại tiêu dùng.

Trường hợp này, cần có sự phân biệt, làm rõ trách nhiệm liên đới đối với hàng hóa, chất lượng dịch vụ khiếm khuyết của tổ chức tín dụng hoàn toàn khác biệt với nghĩa vụ trong giao dịch bảo lãnh tín dụng ngân hàng. Nghĩa là, trong giao dịch bảo lãnh tín dụng ngân hàng, tổ chức tín dụng phải thực hiện nghĩa vụ tín dụng đối với bên cung ứng hàng hóa trong trường hợp người mua hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Quan hệ giữa các bên là quan hệ bảo lãnh, ngân hàng đương nhiên được loại trừ mọi rủi ro, trách nhiệm từ giao dịch hàng hóa, thương mại giữa các bên giao dịch.

Tóm lại, từ kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn tài phán ở các nước trên thế giới, minh chứng cho thấy, nhận thức và quy định của pháp luật về hợp đồng cho vay tiêu dùng ở nước ta còn nhiều bất cập. Các quy định hiện nay về lĩnh vực này mới chỉ dừng lại ở hiệu quả phân bổ lợi nhuận kinh doanh, chưa đánh giá đúng mực về bản chất, vì vậy phạm vi, mức độ quan tâm, điều chỉnh bằng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người vay tiêu dùng vẫn chưa đi vào trọng tâm, đầy đủ. Pháp luật Việt Nam cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung những điểm sau:

Một là, nghĩa vụ đánh giá khả năng tín nhiệm bên vay của các tổ chức tín dụng cho vay tiêu dùng, không được pháp luật đề cập, thiếu những cơ sở pháp lý để thực hiện. Thiết lập cơ chế lãi suất phù hợp đối với bên vay tiêu dùng nếu không trả được nợ vì năng lực tài chính hạn chế là cần thiết. Trong trường hợp này, cần xem xét cả trách nhiệm của bên cho vay đã không tìm hiểu, không đánh giá năng lực tài chính của bên vay. Do đó, kiến nghị, ban hành quy định điều chỉnh về lãi suất nợ quá hạn (trong các hợp đồng cho vay tiêu dùng) không vượt quá 130% lãi suất trong hạn.

Hai là, quan hệ pháp lý giữa hợp đồng cho vay tiêu dùng với hợp đồng thương mại tiêu dùng có sử dụng vốn vay, pháp luật hiện nay vẫn chưa đề cập. Trên thực tế, giữa tổ chức tín dụng cho vay tiêu dùng và doanh nghiệp cung ứng thương mại và dịch vụ có môi quan hệ khăng khít, lợi ích với nhau, tạo nguy cơ “bắt tay” đẩy rủi ro cho bên vay. Vì vậy, ở trường hợp này, cần bổ sung quy định xem xét trách nhiệm của ngân hàng đối với khoản vay mua sắm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng có chất lượng bị khiếm khuyết.

Thực hiện các kiến nghị trên sẽ góp phần củng cố quan điểm của các nhà làm luật: bảo vệ mạnh mẽ quyền lợi bên yếu thế, nâng cao hơn trách nhiệm bên cho vay khi đánh giá năng lực tài chính bên vay, trách nhiệm với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ, đưa các quy định của pháp luật về hợp đồng cho vay tiêu dùng Việt Nam phù hợp hơn với thực tiễn pháp luật quốc tế.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.