Chất vấn là hình thức giám sát trực tiếp và quan trọng của Quốc hội, đồng thời là quyền quan trọng của đại biểu Quốc hội được Hiến pháp quy định. Chất vấn tuy là quyền cá nhân của đại biểu Quốc hội nhưng khi thực hiện quyền này thì nó được coi là một trong những hoạt động giám sát của Quốc hội. Bài viết chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội.

1. Khái quát về chức năng giám sát của Quốc hội

Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH.

Giám sát là một chức năng cơ bản, quyền đặc biệt của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoạt động giám sát của Quốc hội xuất phát từ yêu cầu đảm bảo cho Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành được thực hiện trên thực tế, đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Quyền giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội có thể tiến hành giám sát ở mức cao nhất hoạt động quản lý nhà nước, kể cả đối với những người giữ chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước. Hoạt động giám sát của Quốc hội mang tính tổng quát, bao trùm, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề mà nhân dân cả nước quan tâm. Khi tiến hành hoạt động giám sát, Quốc hội có thể áp dụng những biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử lý những vấn đề nảy sinh trong giám sát và trách nhiệm pháp lý đối với những người bị giám sát (kể cả việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hoặc miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm… đối với những người giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước1.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:  1900.0191

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến – Ảnh minh họa

Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi kiểu nhà nước, mỗi quốc gia là cơ sở để quyết định tính chất, nội dung, phạm vi hoạt động giám sát. Trong các Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, Quốc hội chỉ là một nhánh quyền lực như các nhánh quyền lực khác nên quyền giám sát của Quốc hội bị hạn chế. Ở các quốc gia này, Quốc hội chỉ giám sát hoạt động của Chính phủ, không giám sát và can thiệp vào hoạt động tư pháp. Quốc hội một số nước không xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Với quyền phán quyết về xét xử của mình, Toà án giám sát hành vi tuân thủ pháp luật của công dân, tổ chức. Trong điều kiện phân chia quyền lực nhà nước thì bản thân hoạt động giám sát cũng bị phân chia. Các nhánh quyền lực có tính đối trọng, chế ước nhau nên hoạt động các nhánh quyền lực sẽ là đối tượng giám sát của nhau.

Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp2. Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định “Quốc hội thực hiện quyền giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Sở dĩ Quốc hội có quyền hạn này là vì nếu Quốc hội chỉ dừng ở việc ban hành Hiến pháp, các đạo luật và các nghị quyết mà không tiến hành giám sát việc tuân thủ các quy định do mình ban hành trong cuộc sống thì hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội – một hoạt động quyền lực nhà nước có tính tối cao – sẽ không phản ánh đúng bản chất của Nhà nước ta.

Với chức năng giám sát tối cao của mình, Quốc hội có vai trò và trách nhiệm rất lớn trong việc bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trên cả nước; bảo đảm cho bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn.

Giám sát tối cao là quyền Hiến pháp giao cho cơ quan duy nhất là Quốc hội. Đối tượng giám sát chỉ có thể là cơ quan, cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. Như vậy, phải hiểu rằng đối với quyền giám sát tối cao của Quốc hội thì đối tượng giám sát phải là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước bao gồm Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những người đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ. Đối tượng giám sát được xác định như vậy bởi lẽ, theo Hiến pháp năm 1992 thì tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nguyên tắc này thì Quốc hội được phân công, thực hiện chức năng giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ở tầng cao nhất trong bộ máy nhà nước. Còn đối với những cơ quan, cá nhân khác trong bộ máy nhà nước, theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành đã có sự phân công, phân nhiệm trong hoạt động giám sát.

Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội có quyền giám sát đối với mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, đối ngoại.

Để thực hiện quyền giám sát một cách có hiệu quả, Quốc hội có thể thông qua nhiều phương thức thực hiện khác nhau, trong đó có hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội.

2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội

Chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời.

Chất vấn là hình thức giám sát trực tiếp và quan trọng của Quốc hội, đồng thời là quyền quan trọng của đại biểu Quốc hội được Hiến pháp quy định. Chất vấn tuy là quyền cá nhân của đại biểu Quốc hội nhưng khi thực hiện quyền này thì nó được coi là một trong những hoạt động giám sát của Quốc hội.

Chất vấn của đại biểu Quốc hội là yêu cầu của đại biểu đó với tư cách là người đại diện có thẩm quyền của nhân dân đối với người bị chất vấn theo quy định của pháp luật, buộc người bị chất vấn phải giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm, những tồn tại trong hoạt động, công tác của cơ quan mà cá nhân đó phụ trách, trả lời về trách nhiệm, về nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Điều 98 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản”.

Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.

Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội, hoặc cho trả lời bằng văn bản. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến UBTVQH để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc UBTVQH. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc UBTVQH ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn”.

Chất vấn, với tư cách là một hình thức giám sát của Quốc hội, được phân biệt với các hình thức khác chủ yếu ở bản chất, mục đích, thủ tục và hậu quả của nó.

Về bản chất, chất vấn là một hình thức được Quốc hội áp dụng để giám sát hoạt động của các cơ quan và cá nhân được giao quyền, là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn của mình là nhân danh cá nhân với tư cách là người đại diện quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân yêu cầu cá nhân bị chất vấn trả lời về trách nhiệm pháp lý của cá nhân đó về những việc làm có đúng với chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo luật định hay không.

Theo quy định của pháp luật thì chất vấn là quyền của cá nhân đại biểu Quốc hội. Khi thực hiện chất vấn, đại biểu Quốc hội độc lập là người đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân, nhân danh quyền lực tối cao của nhân dân chứ không phải nhân danh một cơ quan, tổ chức hay Đoàn đại biểu Quốc hội mà mình là thành viên.

Đại biểu Quốc hội khi thực hiện hoạt động chất vấn không phải nhằm mục đích thu thập thông tin hay số liệu, mà nhằm làm rõ trách nhiệm của cá nhân có trách nhiệm đối với một số vấn đề nào đó. Đây chính là điểm cơ bản để phân biệt chất vấn với câu hỏi thường. Trên thực tế, chất vấn cũng có thể được thể hiện dưới dạng câu hỏi nhưng mục đích của chất vấn và câu hỏi thường khác nhau. Việc hỏi và yêu cầu trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm (hay còn gọi là câu hỏi thường) nhằm thu thập thông tin, số liệu về các vấn đề nào cần biết, trước khi đặt câu hỏi người hỏi hầu như chưa có thông tin về vấn đề mà mình hỏi. Loại câu hỏi thường phụ thuộc vào nhu cầu nắm bắt thông tin của đại biểu Quốc hội chứ không được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào và cũng không bị hạn chế đối với bất kỳ đối tượng  nào. Còn đối với chất vấn, trước khi nêu vấn đề, đại biểu Quốc hội phải tìm hiểu rất kỹ và nắm thông tin về vấn đề mà mình cần chất vấn để làm rõ trách nhiệm của cá nhân có thẩm quyền đối với một vấn đề nào đó. Chất vấn được quy định rất rõ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, đối tượng chất vấn cũng được chỉ ra cụ thể trong một phạm vi nhất định. Vấn đề chất vấn khi đã được nêu lên theo đúng thể thức của pháp luật, chuyển đến người bị chất vấn thì không còn là mối quan hệ cá nhân giữa người bị chất vấn và người chất vấn mà đã trở thành một hình thức giám sát của Quốc hội.

3. Quy trình chất vấn và trả lời chất vấn

Chất vấn là một trong những hình thức giám sát hiệu quả. Thông qua hoạt động chất vấn, đại biểu Quốc hội thể hiện trách nhiệm của người đại biểu trước nhân dân, nêu lên những vấn đề mà cử tri đang bức xúc, yêu cầu giải quyết. Thông qua xem xét việc trả lời chất vấn, Quốc hội đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác của người bị chất vấn. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của UBTVQH, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội v.v.. đã cụ thể hoá quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội và nghĩa vụ trả lời chất vấn của người bị chất vấn, quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp cũng như thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Cụ thể như:

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ của Quốc hội hoặc giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Chất vấn được thực hiện thông qua hình thức hỏi trực tiếp hoặc bằng văn bản, trả lời chất vấn cũng được thực hiện thông qua hình thức trả lời trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản.

Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp được quy định tại Điều 11 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Điều 25 Quy chế hoạt động của UBTVQH, Điều 43 của Nghị quyết ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội. Cụ thể như sau:

– Đại biểu Quốc hội ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc hội để chuyển đến người bị chất vấn. Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội tổng hợp các chất vấn của Đại biểu Quốc hội để báo cáo UBTVQH. 

– UBTVQH dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp và báo cáo Quốc hội xem xét quyết định.

– Người bị chất vấn trả lời trực tiếp đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục tại phiên họp Quốc hội theo thứ tự do Chủ tịch phiên họp nêu. Thời gian trả lời chất vấn về từng vấn đề không quá mười lăm phút. Đại biểu Quốc hội có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời. Thời gian nêu câu hỏi không quá ba phút.

– Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại một phiên họp khác hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Người đã trả lời chất vấn tại kỳ họp hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với đại biểu Quốc hội bằng văn bản về thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại kỳ họp tiếp theo.

Trong trường hợp vấn đề chất vấn cần có thời gian điều tra, nghiên cứu thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản. Quốc hội có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn nếu xét thấy cần thiết.

Do điều kiện thời gian có hạn, ở các khoá Quốc hội gần đây thường mỗi kỳ họp bố trí khoảng thời gian hai đến ba ngày để trả lời chất vấn tại hội trường.

Về nguyên tắc, tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội phải được trả lời bằng văn bản hoặc trực tiếp. Căn cứ vào số lượng và nội dung chất vấn, UBTVQH lựa chọn và quyết định ra những chất vấn tiêu biểu và quan trọng để người bị chất vấn trả lời trực tiếp tại hội trường. Quá trình trả lời, đại biểu Quốc hội và người bị chất vấn có thể đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản. Yêu cầu đối với nội dung chất vấn của đại biểu Quốc hội là phải ngắn gọn, rõ ràng, có căn cứ và phải liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cá nhân của người bị chất vấn.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 11 Luật Hoạt động giám sát và Điều 42, 43 Nội quy kỳ họp Quốc hội3, UBTVQH có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đạt hiệu quả tốt. Tại mỗi kỳ họp của Quốc hội, công tác chuẩn bị cho việc trình Quốc hội xem xét quyết định danh sách người trả lời chất vấn trực tiếp tại phiên họp toàn thể của Quốc hội là việc quan trọng. Với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, có nhiệm vụ giúp Quốc hội tổ chức thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, UBTVQH luôn theo sát tình hình chất vấn ở mỗi kỳ họp Quốc hội, nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề quan trọng, thống nhất với Thường trực Chính phủ, UBTVQH trình Quốc hội quyết định danh sách người có trách nhiệm quản lý lĩnh vực liên quan phải báo cáo, giải trình và trả lời chất vấn, làm rõ trước Quốc hội và cử tri cả nước về những vấn đề thuộc quyền quản lý và điều hành của mình.

Thời gian gần đây, UBTVQH đã nghiên cứu kết hợp chương trình các phiên họp chất vấn gắn với chương trình xem xét một số nội dung công việc khác tại kỳ họp Quốc hội. Các Kỳ họp thứ 5, thứ 6 Quốc hội khoá XII, các phiên chất vấn và trả lời chất vấn được bố trí kết hợp với việc Quốc hội nghe báo cáo giám sát một số chuyên đề quan trọng khác và bố trí chất vấn, trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề. Việc làm này được coi là một yếu tố thuận lợi để đại biểu Quốc hội tăng cường chất vấn, góp phần nâng cao hiệu quả các phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn. Việc bố trí người tham gia trả lời chất vấn trực tiếp tại phiên họp toàn thể cũng có sự đổi mới. UBTVQH rút ngắn thời gian báo cáo giải trình tại Hội trường, thu gọn thời gian nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn. Chính vì vậy, có thể bố trí nhiều người tham gia trả lời chất vấn hơn và chất lượng của hoạt động này cũng tốt hơn.

Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, UBTVQH xem xét việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội được Quốc hội cho trả lời tại phiên họp của UBTVQH và chất vấn khác được gửi đến  UBTVQH. Việc chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp được thực hiện theo những trình tự sau đây:

– Đại biểu Quốc hội ghi nội dung chất vấn, người bị chất vấn và gửi đến UBTVQH; 

– UBTVQH chỉ đạo Ban công tác đại biểu giúp UBTVQH tiếp nhận chất vấn của đại biểu Quốc hội để chuyển đến người bị chất vấn.

– Tuỳ theo nội dung và tính chất của chất vấn, UBTVQH có thể quyết định người bị chất vấn phải trả lời chất vấn bằng văn bản cho đại biểu Quốc hội hoặc trả lời tại phiên họp của UBTVQH.  Trong trường hợp UBTVQH quyết định cho người bị chất vấn trả lời bằng văn bản thì văn bản đó đồng thời được gửi đến UBTVQH và đại biểu Quốc hội đã có câu hỏi chất vấn. Nếu không đồng ý với nội dung trả lời thì đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc UBTVQH. 

Trong trường hợp UBTVQH quyết định việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội được tiến hành tại phiên họp của UBTVQH, thì việc chất vấn được tiến hành như sau:

– Chủ tịch Quốc hội nêu nội dung chất vấn của đại biểu Quốc hội đã được Quốc hội quyết định cho trả lời tại phiên họp của UBTVQH và những chất vấn khác được gửi đến UBTVQH trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội mà UBTVQH quyết định cho trả lời tại phiên họp.

– Đại biểu Quốc hội có câu hỏi chất vấn có thể được mời tham dự phiên họp của UBTVQH  và phát biểu ý kiến.

– Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục.

Nếu đại biểu Quốc hội đã chất vấn không tham dự phiên họp thì nội dung trả lời chất vấn, kết quả phiên họp trả lời chất vấn phải được gửi đến đại biểu đó chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp của UBTVQH. Khi nhận được nội dung trả lời chất vấn mà vẫn không đồng ý thì đại biểu Quốc hội sẽ đề nghị thảo luận tại kỳ họp của Quốc hội. Người đã trả lời chất vấn tại phiên họp của UBTVQH hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với đại biểu Quốc hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời câu hỏi chất vấn tại kỳ họp Quốc hội tiếp theo.

– Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu xét thấy cần thiết UBTVQH ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.

*

Như đã phân tích ở trên, chất vấn được coi là hình thức giám sát trực tiếp có hiệu quả nhất của Quốc hội. Thực tiễn hoạt động chất vấn của Quốc hội tại các kỳ họp Quốc hội thời gian qua (và tại các phiên họp của UBTVQH thời gian gần đây) đã ngày một chứng minh rõ hơn cho nhận định này. Sau nhiều nỗ lực trong việc cải tiến cách thức tổ chức hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, hoạt động này đã có nhiều tiến bộ. Cụ thể là: chất lượng câu hỏi, chất lượng câu trả lời chất vấn dần được nâng cao (theo hướng ngắn gọn mà rõ ràng, hạn chế vòng vo, trúng trọng tâm vấn đề cần hỏi và trả lời); ý thức trách nhiệm của cả người chất vấn và người được chất vấn dần được đề cao (người chất vấn và người được chất vấn đã dành nhiều thời gian chuẩn bị cho hoạt động này hơn, giảm đọc báo cáo, tăng đối thoại trực tiếp, các vấn đề được đề cập tại phiên chất vấn sau đó đã có nhiều chuyển biến tích cực hơn); cử tri và nhân dân cả nước ngày một quan tâm và theo dõi sát sao hơn hoạt động chất vấn của Quốc hội, thực tế dường như hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội diễn ra càng nhiều thì khoảng cách giữa cử tri, nhân dân cả nước với Quốc hội càng ít. Sự quan tâm đó chính là động lực thúc đẩy việc thực hiện chức năng quản lý, điều hành các công việc của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành ngày càng tốt hơn. Chất lượng của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn từng bước được nâng cao, góp phần thúc đẩy hiệu quả công tác, trách nhiệm của các cơ quan chính quyền, của toàn hệ thống chính trị và trở thành một sinh hoạt không thể thiếu trong hoạt động của Quốc hội.

Để tiếp tục củng cố về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, thúc đẩy nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội và tại phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì Quốc hội cần tiếp tục quan tâm một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất là, cần tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, cơ quan có liên quan trong việc triển khai và phục vụ hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn (kể cả tại kỳ họp Quốc hội cũng như tại phiên họp của UBTVQH).

Thứ hai là, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của UBTVQH, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội hiện hành cho phù hợp với những cải tiến về quy trình, quy mô chất vấn, trả lời chất vấn trong thời gian vừa qua, có lường trước một số vấn đề sẽ nảy sinh từ hoạt động này để có những quy định đón đầu.

Thứ ba là, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp của UBTVQH.

Thứ tư là, tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ thực tế quá trình đổi mới hoạt động chất vấn thời gian qua để có những cải tiến đột phá hơn trong tổ chức hoạt động này. Tăng cường giao và tạo điều kiện để thường xuyên tổ chức hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn tại các phiên họp UBTVQH, phiên họp của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

 (1) Xem thêm Điều 14 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội.

(2) Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi.

(3)  Ban hành kèm theo Nghị quyết số 07/2002/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 2.

 TS. Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp.

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)