1. Đối tượng bị thiệt hại ngoài hợp đồng
Theo Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” như sau:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”
Như vậy, theo điều luật này đối tượng bị xâm phạm bao gồm: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác; tài sản…
Trân trọng!
2. Trường hợp chiếm hữu, sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật thì xác định như thế nào?
Theo Bộ luật dân sự năm 2015 đã phân biệt nghĩa vụ hoàn trả tuỳ theo nghĩa vụ được xác lập trong trường hợp chiếm hữu, sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Theo đó:
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, người sử dụng trái pháp luật tài sản
Khi tài sản gây thiệt hại, nhóm chủ thể này có thể vi phạm quy định về quản lý tài sản hoặc không có vi phạm về quản lý tài sản thì bản thân họ cũng luôn được xác định lại có lỗi (bởi hành vi chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản của người khác luôn bị coi là có lỗi).
Do đó, kể cả trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn là rủi ro mà tài sản mang lại (không có lỗi trong quản lý tài sản tại thời điểm xảy ra thiệt hại) thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật cũng phải bồi thường. Bởi vì lúc này, việc chiếm hữu, sử dụng tài sản của họ đã làm gián đoạn việc hưởng lợi ích mà tài sản mang lại của chủ sở hữu (tức là tại thời điểm tài sản gây thiệt hại, chủ sở hữu không chiếm hữu được tài sản và không khai thác được các lợi ích từ tài sản). Vì vậy, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường không thể dựa trên nguyên tắc “chủ sở hữu hưởng lợi ích từ tài sản phải gánh chịu rủi ro do tài sản mang lại”, mà vẫn phải xuất phát từ sự vi phạm của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng ta vẫn phải căn cứ vào năng lực hành vi dân sự của người chiếm hữu, người sử dụng trái pháp luật, tức là việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa theo nguyên tắc chung tại Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015.
“Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Theo đó,nếu người chiếm hữu, người sử dụng trái pháp luật tài sản không đủ năng lực thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể thuộc về bản thân người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật hoặc thuộc về cha, mẹ, người giám hộ hoặc các chủ thể khác có trách nhiệm quản lý họ.
Trân trọng!
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba làm cho tài sản gây thiệt hại cho người khác
Trong Bộ luật dân sự năm 2015, trách nhiệm của người thứ ba có lỗi chỉ được đề cập trong trường hợp súc vật gây thiệt hại.
Theo đó, khoản 2 Điều 603 Bộ luật dân sự năm 2015 kế thừa khoản 2 Điều 625 Bộ luật dân sự trước, Bộ luật dân sự có quy định:
“Điều 603. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
Như vậy, đây là trường hợp bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra.
Bởi vì theo quy định này, cụm từ “làm cho súc vật gây thiệt hại” được hiểu là sự tác động của người thứ ba là nguyên nhân dẫn đến tài sản gây thiệt hại, tài sản chỉ là phương tiện, là vật trung gian để người thứ ba thực hiện hành vi tác động gây ra thiệt hại.
Do đó, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba được nhắc đến trong quy định này được áp dụng hoàn toàn theo quy định tại Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể thuộc về người thứ ba hoặc cha mẹ, người giám hộ, chủ thể khác chịu trách nhiệm quản lý họ.
5. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được xác định như thế nào?
Theo Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
“Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân hoàn khác với năng lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự. Nếu năng lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự quy định chung cho tất cả các chủ thể tham gia quan hệ dân sự nói chung thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là trường hợp cụ thể đối với cá nhân khi xảy ra trường hợp có thiệt hại xảy ra.
Theo đó pháp luật quy định từng nhóm tuổi sẽ có khả năng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân khác nhau:
- Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
- Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Trân trọng!