Vẫn vướng khi áp dụng thực tế

Thời gian gần đây, các công ty chứng khoán đã đồng loạt gửi thông báo tới nhà đầu tư lưu ý việc thực hiện chính sách nộp thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Kèm với thông báo là việc các công ty chứng khoán sẽ bắt đầu thực hiện tạm thu 0,1% trên tổng giá trị bán khi phát sinh giao dịch bán chứng khoán của nhà đầu tư.

Theo quy định có 2 khoản thuế mà nhà đầu tư cần quan tâm khi đầu tư, đó là thuế thu nhập đầu tư vốn và thuế thu nhập chuyển nhượng vốn.

Thuế thu nhập từ đầu tư vốn phát sinh khi có những khoản thu nhập được nhận khi góp vốn hoặc mua cổ phần. Điểm đáng chú ý nhất đối với nhà đầu tư đó là mục này sẽ điều chỉnh các hoạt động phát sinh khi hưởng cổ tức bằng tiền, hoặc cổ tức bằng cổ phiếu, hay cổ phiếu thưởng.

>> Luật sư tư vấn luật thuế qua điện thoạigọi:   1900.0191
Nếu phát sinh thu nhập, nhà đầu tư cần phải tiến hành đăng ký với cơ quan thuế để nộp khoản thuế thu nhập đối với đầu tư vốn bất kể nhà đầu tư lựa chọn cách thức nộp thuế nào. Trường hợp thu nhập chuyển nhượng vốn là những khoản thu nhập phát sinh khi có hoạt động bán chứng khoán đã đầu tư trước đó.

Hiện tại, có 2 cách đóng khoản thuế này cho nhà đầu tư là đóng 0,1% trên doanh số bán ra hoặc đóng 20% trên thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh chứng khoán. Theo các chuyên gia, việc thực hiện theo phương thức nộp 0,1% trên giá chuyển nhượng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn do đơn giản hơn. Tuy nhiên, nếu xem xét các quy định một cách rõ ràng thì sẽ có nhiều công việc cần làm liên quan đến công tác kê khai, nộp thuế phát sinh trên thực tế.

Trên thực tế, nhà đầu tư ở thị trường chứng khoán có thể chia thành 3 nhóm: nhà đầu tư tổ chức; nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp; nhà đầu tư nhỏ lẻ, bán chuyên nghiệp.

Nhà đầu tư tổ chức có được một bộ máy giúp việc thực hiện các hoạt động đầu tư, đồng thời nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp có hoạt động đầu tư diễn ra thường xuyên và dành nhiều, thậm chí là toàn bộ thời gian cho hoạt động đầu tư của mình sẽ tương đối dễ dàng trong công tác kê khai và nộp thuế.

Thế nhưng những nhà đầu tư nhỏ lẻ, bán chuyên nghiệp, chỉ tham gia thị trường trong những thời điểm thích hợp. Nếu họ được nhận cổ tức (bằng tiền hoặc cổ phiếu) hay cổ phiếu thưởng, thì sẽ phải bỏ thời gian để đến cơ quan thuế lập và nộp tờ khai đối với khoản tiền họ nhận được hay khi họ bán cổ phiếu thưởng hoặc cổ phiếu có được từ cổ tức. Điều đó chắc chắn làm tiêu tốn của những nhà đầu tư này thời gian và kinh phí, thậm chí một số nhà đầu tư không có thời gian để đi đến làm thủ tục tại cơ quan thuế trong giờ hành chính.

Bên cạnh đó, đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường OTC, sẽ rất khó có thể áp dụng giá do hoạt động trên thị trường này không có khoảng giá chính thức, mặt khác nếu giao dịch với khối lượng lớn thì sẽ làm giá biến động khá mạnh. Nếu không có những quy định cụ thể, rõ ràng đối với trường hợp này thì rất dễ bị thất thoát nguồn thu thuế do những nghiệp vụ mua bán tạo ra sự thua lỗ để bù trừ đối với khoản lãi từ thị trường niêm yết.

Gần tương tự như nghiệp vụ mua bán chứng khoán thỏa thuận trên sàn niêm yết, hoạt động mua bán trên thị trường OTC có thể sẽ là nghiệp vụ mà nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp có thể sử dụng để nhằm mục đích giảm tối đa số lãi có được trên thị trường niêm yết nhằm giảm bớt số thuế thu nhập phải nộp nếu lựa chọn phương pháp nộp 20% trên thu nhập thuần.

Băn khoăn giữa các phương án

Theo các chuyên gia, đối với trường hợp nộp thuế theo 20% thu nhập thuần, hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về những khoản chi phí hợp lý hợp lệ mà nhà đầu tư được sử dụng để xác định thu nhập thuần.

Đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp, họ phải bỏ nhiều chi phí để tạo nên quyết định mua hoặc bán và phần lớn những khoản chi phí này gắn liền với cá nhân như chi phí điện thoại, xăng dầu, báo chí. Vậy, những khoản chi phí này có được tính là chi phí hợp lý khi xác định thu nhập thuần hay không? Và để được chấp nhận thì nhà đầu tư cần phải làm những thủ tục gì? Điều này chưa được chỉ ra một cách rõ ràng trong những văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

Bên cạnh đó, dù thời điểm áp dụng đã bắt đầu nhưng nhiều nhà đầu tư cũng không quan tâm nhiều đến vấn đề làm thủ tục, thậm chí nhiều trường hợp chưa có mã số thuế để thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi. Mặc dù theo Tổng cục Thuế, nhà đầu tư cần có mã số thuế để hưởng các quyền lợi như được giảm thuế nếu bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc bị bệnh hiểm nghèo; được lựa chọn cách tính thuế thu nhập cá nhân theo mức thuế suất là 20% đối với thu nhập từ kinh doanh chứng khoán; được hoàn thuế thu nhập cá nhân nếu nộp thừa; được cung cấp các dịch vụ về thuế nhanh chóng, thuận tiện.

Mặt khác, nhiều chuyên gia cũng lo lắng, việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân đối với đầu tư chứng khoán đã được nghiên cứu xem xét tính hiệu quả khi thực thi Luật thuế này.

Theo Công ty chứng khoán An Bình, nếu như áp dụng 0,1% trên doanh số bán và trung bình giao dịch của thị trường là 3.000 tỷ đồng/ngày thì mỗi ngày thu được 3 tỷ đồng tiền thuế, chẳng hạn giao dịch 250 ngày/năm thì tổng thu một năm thuế này là 750 tỷ đồng. Trong khi đó, chi phí của xã hội là thời gian của nhà đầu tư phải sử dụng để kê khai và nộp thuế, chi phí in ấn các tờ khai, chi phí đi lại, chi phí nâng cao công nghệ của các công ty chứng khoán cũng như trả tiền lương do phải thuê thêm nhân viên để quản lý.

Về lý thuyết, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh chứng khoán là hoàn toàn đúng vì nó thể hiện được tính công bằng, trong khi người lao động phải nộp thuế trên khoản tiền lương tiền công, thì những nhà đầu tư kiếm tiền bằng việc đầu tư chứng khoán cũng cần phải thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.

Vấn đề đặt ra ở đây là nộp như thế nào để đơn giản nhất, vừa đơn giản cho nhà đầu tư kê khai và nộp thuế, vừa đơn giản cho các cơ quan thuế khi kiểm tra, đơn giản cho công ty chứng khoán trong quản lý và vận hành chính sách này.

Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật thuế – Công ty luật LVN Group (biên tập)