1. Công ước Berne hài hoà lợi ích bản quyền toàn cầu

Ngày 26/10/2008 tròn 4 năm Việt Nam là thành viên của Công ước Berne. Bốn năm với biết bao vấn đề từ nhận thức, hiểu biết đến thực thi đã nảy sinh, bao gồm cả mặt tích cực và hạn chế. Cũng dễ hiểu bởi lần đầu tiên Việt Nam tham gia một Điều ước quốc tế có sức điều chỉnh mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện đến hoạt động văn hoá – nghệ thuật.

Bản chất của sự điều chỉnh này là lợi ích, bao gồm lợi ích của người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng hưởng thụ với tư cách là người tiêu dùng và lợi ích của các quốc gia thành viên. Vì vậy, sự hấp dẫn của nó mang tầm vóc quốc tế. Bài viết này đề cập tới các khía cạnh lợi ích bản quyền, góp phần lý giải về sức mạnh điều chỉnh toàn cầu của Công ước Berne.

Lịch sử hình thành và phát triển:

Hệ thống luật án lệ và hệ thống luật thành văn là hai triết lý phát sinh sự khác nhau, đang tồn tại trong hệ thống các luật quyền tác giả. Sự khác nhau này đều đã thể hiện tại các Điều ước quốc tế song phương. Theo thời gian, nhiều Điều ước quốc tế song phương đã được ký kết, đặc biệt là sự gia tăng vào nửa cuối thế kỷ XIX. Từ đó, ý tưởng về một Điều ước quốc tế đã ra đời. Việc chuẩn bị một văn kiện pháp lý chứa đựng các quy tắc ứng xử chung, tạo ra nền tảng pháp lý thống nhất tới mức có thể là vấn đề rất phức tạp. Công việc này đã khởi động trước khi thông qua nghị quyết Hội nghị của Hiệp hội Văn học và Nghệ thuật quốc tế (ALAI) năm 1886. Theo yêu cầu của ALAI, ba hội nghị ngoại giao liên tiếp được tổ chức tại Berne vào các năm 1884, 1885 và 1886 do Liên bang Thuỵ Sỹ triệu tập để xem xét dự thảo Công ước. Tại cuộc họp lần thứ ba năm 1886, Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật đã được thông qua. Nguyên tắc đối xử quốc gia và yêu cầu bảo hộ tối thiểu là tư tưởng quán xuyến toàn bộ nội dung của Công ước này.

>> Luật sư tư vấn Luật sở hữu Trí tuệ qua điện thoại (24/7) gọi số: 1900.0191

Công ước Berne ra đời cách đây 122 năm, văn bản ngày 24/7/1971 tại Paris, sửa đổi ngày 28/9/1979 là văn bản đang được thi hành tại 164 quốc gia thành viên. Như vậy, sức sống của nó hiện đã nằm trong 3 thế kỷ, trong đó trên một thập niên thuộc thế kỷ XIX, trọn thế kỷ XX và đang ở thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Sở dĩ trường tồn như vậy, vì từ khi ra đời đến nay nó đã trải qua 8 lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thời đại, trong đó lần sửa đổi đầu tiên tại Paris năm 1896, tiếp đó tại Berlin năm 1908, tại Bern năm 1914, tại Rome năm 1928, tại Brussels năm 1948, tại Stockholm năm 1967, tại Paris năm 1971 và bổ sung năm 1979. Việc sửa đổi, bổ sung Công ước xuất phát từ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, như việc phát minh ra máy ghi âm, máy ảnh, radio, điện ảnh, phát thanh truyền hình, v.v… đồng thời là nhu cầu nội tại của việc công nhận quyền tinh thần, huỷ bỏ thủ tục hình thức, bảo hộ sự sáng tạo dân gian, tiếp cận tác phẩm cho việc giáo dục, nghiên cứu khoa học, v.v… Các điều luật được điều chỉnh đã chi tiết hơn về quyền được bảo hộ, ngoại lệ và giới hạn, thời hạn bảo hộ tối thiểu, chủ sở hữu nguyên thuỷ, v.v… Sau nhiều lần sửa đổi, Công ước Berne đã đưa ra các quy định đạt mức hài hoà cao dựa trên nguyên tắc đối xử quốc gia kết hợp với những quy định về mức độ bảo hộ tối thiếu.

Ba nguyên tắc điều chỉnh lợi ích của các quốc gia thành viên:

Nguyên tắc đối xử quốc gia, là nguyên tắc đặt ra cho các quốc gia thành viên thực hiện bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân quốc gia mình. Sự bảo hộ đó không kém thuận lợi, không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc gia mình. Nguyên tắc này đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên.

Tiếp theo là nguyên tắc bảo hộ đương nhiên, là sự bảo hộ không lệ thuộc vào bất kỳ thủ tục hình thức nào như là thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận, việc nộp lưu chiểu, hoặc các thủ tục tương tự khác.

Nguyên tắc cuối cùng là nguyên tắc độc lập bảo hộ. Nguyên tắc này nêu yêu cầu cho các quốc gia thành viên việc bảo hộ để công dân và các pháp nhân được hưởng và thực thi các quyền được cấp theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm.

Ba nguyên tắc này phải được thực hiện tại tất cả các quốc gia thành viên, nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng cho công dân và pháp nhân có tác phẩm được bảo hộ. Đó cũng là sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các nước thành viên Công ước.

Tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu tại các quốc gia thành viên:

Bảo hộ tối thiểu là chuẩn mực chung, áp dụng tại mọi quốc gia thành viên, được thể hiện tại các quy định của Công ước, đặc biệt là quy định về các quyền của tác giả và thời hạn bảo hộ.

Đối với tác phẩm, công ước dành sự bảo hộ cho tất cả các ý tưởng về sản phẩm trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được định hình dưới dạng vật chất nhất định đã hoặc sẽ có trong tương lai, không phân biệt hình thức và cách thức thể hiện, không lệ thuộc bởi bất kỳ thủ tục hình thức nào như là việc đăng ký, nộp lưu chiểu. Quy định này bắt nguồn từ triết lý “quyền tự động phát sinh”, nguyên tắc bảo hộ đương nhiên. Các liệt kê tại Điều 2 Công ước bao gồm nhiều loại hình tác phẩm cụ thể được bảo hộ. Theo yêu cầu mới của việc bảo hộ từ các nước đang phát triển, loại hình văn học, nghệ thuật dân gian đã được bổ sung tại Hội nghị Stockholm năm 1967. Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ năm 1994 đã bổ sung chương trình máy tính và sưu tập dữ liệu vào loại hình tác phẩm được bảo hộ (Điều 10); việc loại trừ các loại hình không được bảo hộ cũng được quy định cụ thể để các quốc gia thành viên áp dụng. Như vậy, cùng với sự phát triển của nhân loại, tác phẩm được bảo hộ luôn được bổ sung để có thể thực hiện bảo hộ trên toàn cầu các sáng tạo văn học, nghệ thuật và khoa học.

Về quyền được bảo hộ, Công ước quy định các quyền độc quyền của tác giả bao gồm quyền sao chép, quyền phân phối, quyền dịch, quyền phóng tác, quyền biểu diễn công cộng, quyền kể lại trước công chúng, quyền phát sóng, quyền truyền thông tới công chúng, quyền bán lại tác phẩm nghệ thuật gốc. Khi xuất hiện các hiệp ước về Internet (WCT, WPPT), khái niệm sao chép kỹ thuật số, các quyền truyền kỹ thuật số, biện pháp công nghệ và thông tin quản lý quyền ra đời để có thể bảo vệ được quyền tác giả trong thời đại kỹ thuật số. Các quyền độc quyền trên là quyền kinh tế của tác giả, do tác giả trực tiếp thực hiện hoặc cho phép các tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Việc khai thác các quyền này sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho tác giả để tái đầu tư cho sáng tạo mới. Nguồn lợi thu được từ các tác phẩm là động lực thúc đẩy lao động sáng tạo của các tổ chức và cá nhân, để có nhiều giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của xã hội loài người. Đồng thời với quyền độc quyền, Công ước còn đưa ra quy định về giới hạn và ngoại lệ. Tuy nhiên nó phải đáp ứng điều kiện ba bước thử. Có nghĩa các giới hạn và ngoại lệ chỉ mở rộng tới các trường hợp đặc biệt, không ảnh hưởng tới việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây thiệt thòi về quyền lợi hợp pháp của tác giả. Các quyền tinh thần được đề cập trong Công ước là các quyền đứng tên tác giả trên tác phẩm, phản đối bất kỳ sự cắt xén, bóp méo, sửa đổi hoặc bất kỳ hành vi xúc phạm khác liên quan tới tác phẩm, có thể làm phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Thời hạn bảo hộ cũng là vấn đề thuộc yêu cầu bảo hộ tối thiểu đã được quy định tại Công ước Berne. Có hai nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ được áp dụng. Nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ theo đời người, được quy định là khoảng thời gian suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ dựa vào thời điểm công bố được quy định là khoảng thời gian 50 năm đối với tác phẩm điện ảnh hoặc thời điểm tác phẩm được sáng tạo, nếu chưa công bố. Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 20 năm kể từ khi tác phẩm được sáng tạo. Quy định này là yêu cầu bảo hộ tối thiểu, tuỳ theo từng quốc gia thành viên có thể quy định thời hạn bảo hộ dài hơn như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, Nhật Bản, Singapore, v.v…

Ưu đãi dành cho quốc gia thành viên là những nước đang phát triển:

Những Điều khoản đặc biệt dành cho các quốc gia đang phát triển được quy định tại Phụ lục Công ước Berne về ưu đãi, miễn trừ. Lợi ích này là thoả thuận của các nước phát triển, để các quốc gia đang phát triển có thể tiếp cận việc dịch và xuất bản (làm các bản sao) đối với một số loại hình tác phẩm. Giấy phép không độc quyền và bất khả nhượng sẽ do cơ quan có thẩm quyền cấp với thời hạn thông thường là 5 năm tính từ lần xuất bản đầu tiên tác phẩm; là 3 năm đối với tác phẩm khoa học tự nhiên, kể cả toán học và công nghệ; là 7 năm đối với tác phẩm khoa học và viễn tưởng, thơ ca, kịch, âm nhạc và tác phẩm nghệ thuật. Đây là lợi ích được ưu đãi, nhưng nhiều vấn đề liên quan đến điều kiện sử dụng, thủ tục và quy trình bắt buộc cũng như hình thành trung tâm thông tin quốc gia để quản lý vấn đề này phải được thực hiện nghiêm túc tại các quốc gia đang phát triển có nhu cầu hưởng ưu đãi.

Công ước Berne là công ước quốc tế về bản quyền lâu đời nhất. Nó tạo nên yếu tố nền tảng và tương tác với các công ước và hiệp ước khác đặc biệt là Hiệp định TRIPS, Công ước quyền tác giả toàn cầu (UCC), các hiệp ước về Internet (WCT, WPPT). Vì vậy, việc tiếp cận với Công ước Berne và các công ước, hiệp ước quốc tế khác về bản quyền để có nhận thức đúng, hiểu biết đầy đủ, làm cơ sở cho hoạt động thực thi, khai thác các lợi ích bản quyền trên phạm vi toàn cầu là yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập. Việt Nam có tìm thấy lợi ích hài hoà đặt ra tại Công ước Berne và các công ước, hiệp ước quốc tế khác về quyền tác giả và quyền liên quan trong quá trình thực thi, hội nhập hay không, điều đó tuỳ thuộc nhiều ở sự nỗ lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức phi chính phủ liên quan, đặc biệt là các tổ chức và cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm.

(LVN GROUP FIRM: sưu tầm & biên tập)

2. Thu tiền đền bù từ thiết bị và vật ghi có thực sự khả thi ?

Thu tiền “đền bù” từ thiết bị và vật ghi là vấn để mới, phức tạp. Nó mới và phức tạp hơn các vấn đề bản quyền đã đề cập lâu nay tại Việt Nam. Đây là vấn đề được tiếp thu từ văn hoá bản quyền của nhân loại. Vì vậy, để có được nhận thức đúng và hiểu biết đầy đủ trong giới có quyền và nghĩa vụ liên quan, và trong công chúng, rất mong có được thái độ tiếp cận tích cực. Trong phạm vi của chủ đề, bài viết này đề cập đến các nội dung liên quan.

Các nước có nền công nghiệp bản quyền phát triển đều có quy định tại Luật quyền tác giả về khoản “đền bù” cho các chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan từ việc sản xuất, nhập khẩu thiết bị định hình, sao chép và các vật ghi (trong đó có đĩa quang trắng). Các nước châu Âu áp dụng hệ thống Levy thu tiền từ vật ghi như đĩa quang trắng, ổ cứng máy vi tính v.v… Thế giới đã hình thành Liên đoàn quốc tế các tổ chức quyền sao chép (IFRRO) hiện có trên 112 thành viên từ các quốc gia, thực hiện việc thu tiền bản quyền trên số đầu máy photocopy được sản xuất, nhập khẩu. Có thể liệt kê Luật quyền tác giả có quy định về thu tiền “đền bù” thiết bị sao chép, phương tiện lưu trữ, trong đó có đĩa quang trắng gồm: Iceland, Mỹ, Italia, Áo, Hà Lan, Hy Lạp, Cônggô, Thuỵ Sỹ, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha, Slovakia, Séc, Đan Mạch, Đức, Nhật Bản, Nauy, Latvia, Litva, Hungari, Phần Lan, Pháp, Bỉ, Ba Lan, Bồ Đào Nha, v.v…

Riêng về đĩa quang, Liên đoàn quốc tế các tổ chức quản lý tập thể quyền của nhà sản xuất bản ghi âm (IFPI) đã có luật mẫu về đĩa quang để các nước tham khảo, xây dựng luật quốc gia. Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã có các quốc gia và vùng lãnh thổ có văn bản luật riêng về đĩa quang gồm: Philippin, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Macao.

>> Luật sư tư vấn Luật sở hữu Trí tuệ qua điện thoại (24/7) gọi số: 1900.0191

Luật Quyền tác giả của các quốc gia, các điều ước quốc tế đều xử lý hài hoà lợi ích của các chủ thể quyền gồm: người sáng tạo, nhà sử dụng, công chúng tiêu dùng. Vì vậy đã đặt ra việc thu khoản tiền này.

Theo đó, Luật quyền tác giả của các quốc gia quy định rõ và cụ thể về các vấn đề sau: Thiết bị ghi, sao chép; Vật để ghi, sao chép; Công thức tính và số tiền phải nộp; Tổ chức được giao nhiệm vụ thu; Việc phân phối cho các chủ thể quyền; Việc hoàn trả tiền đối với trường hợp sử dụng vật ghi để lưu trữ tư liệu cá nhân.

Luật Việt Nam cũng được xây dựng và hoàn thiện theo nguyên tắc tiến bộ này.

Tuy nhiên, đến nay chúng ta chưa có hướng dẫn cụ thể về quy định tại Điều này.

Tại Áo, tiền đền bù bản quyền được áp dụng từ năm 1978. Tại Thuỵ Sỹ, mức tiền tuỳ thuộc vào đặc tính và dung lượng vật ghi như thẻ nhớ, đĩa ghi 1 lần, đĩa ghi nhiều lần; thiết bị ghi âm, ghi hình; máy photocopy. Tại Đức, Luật Quyền tác giả quy định không chỉ có nhà sản xuất, nhập khẩu mà cả nhà buôn bán thiết bị và vật ghi (như USB, thẻ nhớ và ổ cứng) có thể sao chép cũng phải nộp tiền. Tại Pháp, Điều 311 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về tiền đền bù từ việc sao chép cá nhân được mở rộng đối với các thẻ nhớ, thẻ USB và các ổ cứng ngoài. Tại Mỹ, Luật quyền tác giả Hoa Kỳ tại Chương 10 quy định về tiền bản quyền đối với thiết bị và vật sao chép kỹ thuật số đối với bản ghi âm với 10 Điều (từ Điều 101 đến 110) với dung lượng 23 trang giấy khổ A4 đã có quy định rất chi tiết về việc thu tiền đối với phương tiện sao lưu kỹ thuật số và vật ghi kỹ thuật số. Tại Chương V Luật quyền tác giả Nhật Bản (bao gồm 9 Điều, từ 104 bis đến 104 deceis) quy định về thu tiền đền bù đối với sao chép cá nhân bản ghi âm, ghi hình đối với các loại đầu ghi và băng, đĩa có định dạng DAT, DCC, MD, CD-R, CD-RW, DVD-RW, DVD+RW, DVD-RAM, DVCR, D-VHS.

Không riêng đĩa quang trắng mà các thiết bị ghi khác cũng có một phần phục vụ cho nhu cầu lưu trữ của cá nhân, doanh nghiệp, nhưng có bộ phận không nhỏ được sử dụng để định hình, sao chép tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Luật các nước đều có cách xử lý phù hợp. Đối với Nhật, các tổ chức, cá nhân chứng minh được việc sử dụng đĩa trắng thuộc nhu cầu lưu trữ tài liệu riêng của cá nhân thì được hoàn trả khoản tiền đã nộp.

Chỉ có chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan mới được quyền hưởng khoản thu này. Trong trường hợp tại quốc gia có các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, thì tổ chức này thực hiện việc thu và phân phối lại cho các chủ thể quyền. Các tổ chức nghề nghiệp khác không có quyền này. Tại Thuỵ Sỹ, việc thu và phân phối khoản tiền này thông qua các tổ chức quản lý tập thể khác nhau. Số tiền được chia theo tỉ lệ: chủ sở hữu quyền tác giả hưởng ¾, chủ sở hữu quyền liên quan hưởng ¼. Tại Nhật Bản, lập ra một tổ chức riêng để thu và phân phối, nhưng tỷ lệ phân chia có khác: chủ sở hữu quyền tác giả hưởng 36%, người biểu diễn hưởng 32%, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình hưởng 32%.

Vì lý do trên và vì vấn đề vượt khỏi tầm của một Nghị định, rất có thể nó sẽ trở thành một Điều luật mới trong Dự án sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ lần này, làm cơ sở cho việc hướng dẫn tại Nghị định. Bạn đọc có thể tham khảo thông tin về Luật của một số quốc gia tại tệp văn bản đính kèm./.

(LVN GROUP FIRM: Sưu tầm & biên tập)

3. Giải đáp thắc mắc về bản quyền với các sản phẩm số hóa

Trong Luật Sở hữu trí tuệ cũng như Luật Bản quyền quy định về bản quyền sản phẩm số hóa chưa? Nếu số hóa tác phẩm và phát hành trên website thì có vi phạm bản quyền không?

Hiểu một cách đơn giản, số hóa là việc sử dụng các thiết bị công nghệ số để chuyển đổi các hình thức tài liệu dưới dạng truyền thống sang dạng số để thông tin có thể được xử lý, lưu trữ, và truyền phát qua các thiết bị kỹ thuật số và trên mạng.

Như vậy, bản thân việc số hóa không tạo nên một tác phẩm mới mà chỉ là thay đổi hình thức thể hiện của một tác phẩm sẵn có từ các dạng khác nhau thành định dạng số hóa để có thể lưu trữ lâu dài và dễ dàng sử dụng nhờ các thiết bị kỹ thuật.

Chính vì tác phẩm số hóa không phải là một tác phẩm mới nên nó vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ nói chung và các văn bản hướng dẫn thi hành mà không cần phải có thêm các quy định đặc biệt nào khác cho hình thức thể hiện này của tác phẩm.

Tuy nhiên, khi xem xét về việc số hóa các tác phẩm thì cần phải khẳng định rằng bản thân hành vi số hóa không hề xâm phạm quyền tác giả theo quy định tại Điều 28 của Luật Sở hữu trí tuệ. Việc có vi phạm hay không phụ thuộc vào mục đích hay phạm vi sử dụng. Trong trường hợp mục đích và phạm vi sử dụng tác phẩm số hóa vượt ra ngoài các ngoại lệ như đã được nêu tại điều 25 và điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ thì hành vi sử dụng tác phẩm số hóa mới có thể bị coi là hành vi xâm phạm quyền.

Trong trường hợp của bạn Tài, đã tiến hành số hóa tác phẩm, nếu không được phép của chủ sở hữu và tải lên website, hành vi này được coi là hành vi vi phạm bản quyền tác phẩm.

Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.

4. Sự khác nhau giữa pháp luật về quyền tác giả và pháp luật về Bản quyền

Sự tồn tại song song hai hệ thống luật chính trên thế giới – hệ thống Luật lục địa và hệ thống thông luật đã được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu. Trong hai hệ thống này, liên quan đến việc bảo hộ quyền đối với tác phẩm văn học nghệ thuật, tồn tại hai hệ thống nhỏ : Pháp luật về Quyền tác giả (PLQTG) của hệ thống luật lục địa và Pháp luật về Bản quyền (PLBQ) của hệ thống thông luật. Các nước pháp dụng PLBQ như Hoa Kỳ, Anh, Canada, Úc,…

Các nước áp dụng PLQTG tiêu biểu như Pháp, Đức, Việt Nam… Cùng với xu thế hội nhập các nước đã xây dựng nên các điều ước quốc tế với những quy định mang tính hài hòa. Tuy nhiên, giữa hai hệ thống vẫn còn một số điểm khác biệt quan trong.

So sánh giữa hai hệ thống, đặt các quy định của Pháp luật Việt Nam về quyền tác giả trong hệ so sánh là cách thức hiệu quả để hiểu rõ hơn về quy định cũng như tư tưởng của các nhà làm luật, đánh giá mức độ phù hợp của quy định với thực tế. Bài viết sử dụng những quy định của Bộ luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) Pháp và Luật Bản quyền Hoa Kỳ – những văn bản pháp luật tiêu biểu cho mỗi hệ thống để minh họa.

Bài viết sẽ đi theo các nội dung sau :

1. Hình thức thể hiện tác phẩm

2. Tác giả

3. Nội dung quyền

>> Luật sư tư vấn Luật sở hữu Trí tuệ qua điện thoại (24/7) gọi số: 1900.0191

Youtube video

Luật sư tư vấn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Gọi: 1900.0191

1. HÌNH THỨC THỂ HIỆN TÁC PHẨM

Nói đến tác phẩm được bảo hộ là ta nhớ đến các tiêu chí : là sản phẩm của con người, được thể hiện dưới một hình thức nhất định và hình thức đó mang tính sáng tạo.

Về hình thức thể hiện tác phẩm, CƯ Berne cho phép các quốc gia lựa chọn việc tác phẩm bảo hộ phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định hay không (K2Đ2).

So sánh giữa hai hệ thống PLQTG và PLBQ, ta thấy các nước theo hệ thống PLBQ yêu cầu tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức hữu hình (« any tangible medium of expression » – §102 LBQ Hoa Kỳ, « material form » – Đ3 phần I LBQ Canada, …) trong khi các nước thuộc hệ thống PLQTG bảo hộ các tác phẩm được thể hiện dưới hình thức bất kì (Điều L112-1 Bộ luật SHTT Pháp). Như vậy, một bài phát biểu, bài giảng muốn được bảo vệ quyền tác giả theo Luật bản quyền của Hoa Kỳ thì phải thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định như văn bản, còn theo Bộ luật SHTT của Pháp thì chỉ cần bài phát biểu, bài giảng được nói ra, đã được bảo hộ.

Về điểm này, Luật SHTT Việt Nam quy định giống Luật bản quyền của Hoa Kỳ hay Canada, tác phẩm phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định (Đ6). Tác phẩm được thể hiện dưới hình thức nhất định sẽ là bằng chứng cho tác giả bảo vệ quyền của mình, nhất là khi tác giả phản đối hành vi của người khác tự ý sửa chữa tác phẩm.

2. TÁC GIẢ

A. Xác định tác giả

Sự khác biệt đáng kể giữa hai hệ thống là ở nội dung xác định tác giả cho tác phẩm do người lao động sáng tác, tác phẩm được sáng tác theo hợp đồng hay tác phẩm điện ảnh. K2Đ14 bis CƯ Berne để cho pháp luật các quốc gia thành viên tự xác định tác giả cho tác phẩm điện ảnh.

PLBQ quy định tác giả có thể là thể nhân trực tiếp sáng tác, nhà sản xuất, người đặt hàng làm tác phẩm… Như vậy, tác giả có thể là thể nhân, có thể là pháp nhân. Nếu tác phẩm làm theo hợp đồng thì theo PLBQ người thuê được coi như tác giả, người thuê có tất cả quyền bản quyền – « work made fore hire » – mục b § 201 Luật Bản quyền của Hoa Kỳ (trừ khi các bên có thỏa thuận khác).

PLQTG lại quy định tác giả phải là thể nhân trực tiếp sáng tạo hoặc tham gia sáng tạo lên tác phẩm vì chỉ có thể nhân mới có thể tư duy sáng tạo. PLQTG trong đó có luật Việt Nam quy đinh người giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng theo hợp đồng không phải là tác giả mà chỉ là chủ sở hữu đối với tác phẩm.

Tuy quyền tài sản đối với một tác phẩm là quyền quan trọng, do đó ta có thể coi đây là sự hài hòa nhất định giữa hai hệ thống. Nhưng sự không trùng khớp trong quy định của hai hệ thống có thể đưa tới những kết quả áp dụng pháp luật rất khác nhau : ví dụ, trong một trường hợp tương tự như vụ họa sĩ Lê Linh kiện công ty Phan Thị, sau khi ông đã thôi không làm ở Công ty Phan Thị, yêu cầu không được tiếp tục ra số mới của truyện Thần đồng đất Việt do ông là họa sĩ, nếu áp dụng Luật bản quyền của Hoa Kỳ thì yêu cầu của họa sĩ Lê Linh sẽ không được chấp nhận vì Công ty Phan Thị là người thuê sáng tác được coi như là tác giả của tác phẩm, có quyền cho viết tiếp tác phẩm. Nhưng nếu áp dụng PLQTG, phương án giải quyết không hề dễ dàng, khi họa sĩ mới là tác giả, họa sĩ có quyền nhân thân bao gồm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Ta sẽ tiếp tục phân tích về vấn đề này ở phần nội quyền nhân thân dưới đây.

Rõ ràng, PLBQ quy định dựa trên lô-gíc kinh tế, coi nhà đầu tư làm trung tâm, hạn chế sự độc quyền của tác giả. Quy định này khuyến khích nhà đầu tư, khuyến khích việc quảng bá sản phẩm tinh thần. Lợi nhuận từ việc khai thác sản phẩm quay lại bù đắp sáng tạo của nghệ sĩ. Nghệ sĩ sẽ phụ thuộc vào nhà đầu tư. Chính vì vậy nghệ sĩ phải bảo vệ mình bằng các thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng hay gia nhập các Nghiệp đoàn… Ở Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn sẽ đại diện cho các nghệ sĩ đàm phán với các nhà xuất bản, nhà làm phim để ấn định thù lao tối thiểu trong hợp đồng (hợp đồng lao động tập thể) dựa theo quy mô kinh phí xây dựng tác phẩm, thời gian… Hợp đồng kí kết giữa nghệ sĩ và nhà đầu tư hay nhà làm phim phải cao hơn mức thù lao tối thiểu trên[1]. Trong khi đó, PLQTG chú trọng mối liên hệ giữa tác giả và sáng tác của mình, tác giả giành quyền độc quyền đôi khi có thể làm tê liệt việc xuất bản, phổ biến tác phẩm của chủ sở hữu. Với quyền độc quyền này, tác giả bảo vệ được tác phẩm khỏi những thay đổi làm ảnh hưởng đến danh dự uy tín nhân phẩm của mình. Các nhà xuất bản, các nhà sản xuất, đối tác của các tác giả cũng cần đưa những quy định cụ thể vào hợp đồng hoặc khởi kiện về việc tác giải lạm dụng quyền.

B. Thủ tục đăng kí giấy chứng nhận quyền tác giả

Trước đây, các nước trong hệ thống PLBQ yêu cầu chủ thể quyền phải đăng kí thì mới được công nhận quyền tác giả. Chính công ước Berne đã đem lại sự hài hòa hóa giữa hai hệ thống : các nước thành viên phải chấp nhận một nguyên tắc cơ bản – nguyên tắc bảo hộ tự động – tác phẩm được bảo hộ ngay từ khi được thể hiện dưới một hình thức nhất định mà không phụ thuộc vào bất kì thủ tục đăng kí nào (Điều 5.2 CƯ Berne). Quy định này theo tư tưởng lấy quyền lợi của tác giả làm trung tâm, tạo điều kiện cho tác giả có được quyền một cách dễ dàng.

Tuy nhiên, việc đăng kí giúp cho tác giả có được bằng chứng khi xảy ra tranh chấp. Ở Anh, không có cơ quan đăng kí Bản quyền chính thức[2], cơ quan SHTT còn hướng dẫn các tác giả gửi cho chính mình một bản copy của tác phẩm bằng bưu điện (với ngày tháng rõ ràng trên phong bì), không mở phong bì khi nhận lại (cần phải ghi nhớ nội dung bên trong phong bì nếu tác giả làm việc này nhiều lần). Hay tác giả có thể gửi tác phẩm tại ngân hàng…. Việc gửi này không chứng minh được rằng tác phẩm có sự sáng tạo trong hình thức thể hiện hay được sáng tác bởi người gửi, nhưng nó có thể chứng minh cho thẩm phán xét xử (trong trường hợp có tranh chấp liên quan) thời điểm mà người gửi sở hữu bản sao này.[3]

Ở Việt Nam, việc đăng kí là không bắt buộc tuy nhiên các tác giả có thể đăng kí tác phẩm của mình tại Cục bản quyền (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) – một bằng chứng quan trọng về mốc thời gian sở hữu tác phẩm. Tuy nhiên Giấy chứng nhận quyền tác giả không đảm bảo tính hợp pháp của tư cách chủ sở hữu cũng như tính sáng tạo trong hình thức thể hiện tác phẩm. Giấy có thể bị Cục bản quyền hủy nếu không đáp ứng yêu cầu về đối tượng được bảo hộ (K2, K3 Đ55 Luật SHTT).

3. NỘI DUNG QUYỀN

Theo cách tiếp cận truyền thống, ta sẽ phân tích sự khác nhau giữa hai hệ thống ở từng nội dung quyền : quyền nhân thân và quyền tài sản.

A. Quyền nhân thân

Trước đây, các nước theo hệ thống PLBQ không thừa nhận quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm của mình. Công ước toàn cầu về quyền tác giả đã được kí kết ngày 6 tháng 9 năm 1952 theo sáng kiến của Hoa Kỳ và các nước không đồng ý với Công ước Berne. Công ước này không yêu cầu các quốc gia phải thừa nhận quyền nhân thân cho tác giả. Tuy nhiên, sự gia nhập mạnh mẽ của các quốc gia vào Công ước Berne đã làm công ước này mất đi tầm quan trọng. Hoa Kỳ cũng phải tham gia vào Công ước Berne năm 1989 (sau khi công ước đã ra đời được 103 năm).

Điều 6 bis của Công ước Berne quy định : ngoài quyền tài sản, tác giả còn có quyền được đứng tên trên tác phẩm, quyền phản đối mọi sửa chữa, thay đổi tác phẩm làm hại đến danh dự, uy tín của tác giả. Quyền nhân thân này được duy trì sau khi tác giả qua đời, ít nhất là đến hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản, thực hiện bởi các chủ thể do pháp luật các quốc gia thanh viên quy định. Tuy nhiên, Công ước Berne cũng thể hiện tính mềm dẻo ở chỗ : Pháp luật của các quốc gia thành viên của Công ước mà vào thời điểm phê chuẩn hay gia nhập công ước chưa thừa nhận quyền nhân thân cho tác giả sau khi tác giả qua đời thì có thể quy định rằng một số quyền thuộc quyền nhân thân không được duy trì sau khi tác giả qua đời.

Vậy là Công ước Berne đã thành công và các nước lần lượt đưa quy định về quyền nhân thân của tác giả vào luật của mình : Anh (1988), Hoa Kỳ (1990)…

Tuy nhiên, quy định về quyền nhân thân giữa hai hệ thống còn nhiều cách biệt :

Về nội dung quyền : Bộ luật SHTT của Pháp quy định, quyền nhân thân bao gồm : quyền công bố tác phẩm, quyền đứng tên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm và quyền sửa chữa tác phẩm hoặc rút tác phẩm ra khỏi lưu thông. Luật SHTT của Việt Nam quy định các quyền tương tư : quyền công bố tác phẩm, quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Quyền được nêu chung chung nhưng thực chất là những quyền có tầm ảnh hưởng quan trong trong khai thác tác phẩm.

Trong khi đó, theo Luật Bản quyền của Hoa Kỳ, quyền nhân thân hẹp hơn, chỉ bao gồm : quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Đối với quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, tác giả chỉ có quyền cấm những thay đổi gây thiệt hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của tác giả. Quy định rõ ràng này tránh trường hợp các tác giả lạm dụng quyền nhân thân cản trở việc khai thác tác phẩm của chủ sở hữu, hạn chế khả năng tiếp cận của người sử dụng đối với tác phẩm.

Phạm vi quyền :

Luật Bản quyền của Hoa Kỳ chỉ thừa nhận quyền nhân thân cho tác giả của một số loại tác phẩm như : tác phẩm hội họa, điêu khắc, ảnh triển lãm. Thể nhân trực tiếp sáng tác ra các tác phẩm như áp –phích, biểuu đồ, bản vẽ kĩ thuât, tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, báo, tạp chí, cơ sở dữ liệu và đặc biệt là các tác phẩm của người lao động hay tác phẩm làm theo đơn đặt hàng… không được thừa nhận quyền nhân thân. Quy định này đã giới hạn quyền nhân thân trên các tác phẩm có số lượng người sử dụng lớn. Trong khi đó, hệ thống PLQTG quy định rộng rãi cho tác giả của tất cả các tác phẩm.

Ví dụ, nhà sản xuất muốn chuyển bộ phim đen trắng thành phim màu để phù hợp với thị hiếu của khán giả. Nếu áp dụng LQTG, nhà sản xuất phim phải xin ý kiến của đạo diễn cùng một số nghệ sĩ khác được coi là tác giả của tác phẩm điện ảnh, tránh có những khiếu kiện về sau liên quan đế quyền nhân thân, nhưng nếu áp dụng LBQ Hoa Kỳ thì nhà sản xuất phim không cần phải hỏi ý kiến những nghệ sĩ này do LBQ Hoa Kỳ không thừa nhận quyền nhân thân cho tác phẩm được làm theo hợp đồng. Từ đây ta có thể thấy luật áp dụng có ảnh hưởng quyết định đến kết quả giải quyết một tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

Thời hạn quyền nhân thân : Luật Bản quyền của Hoa Kỳ chỉ thừa nhận quyền nhân thân cho đến hết năm mà tác giả qua đời. Trong khi đó, theo LQTG, quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm) là vô thời hạn.

Khả năng chuyển nhượng hay từ chối quyền : Theo luật Bản quyền của Hoa Kỳ, quyền nhân thân không thể chuyển nhượng nhưng tác giả có thể khước từ quyền này bằng văn bản. Bộ luật SHTT của Pháp và Luật SHTT của Việt Nam quy định đây là quyền gắn liền với tác giả không thể chuyển nhượng và sau khi tác giả qua đời quyền này được thực hiện bởi người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.

B. Quyền tài sản

Nói về quyền tài sản đối với tác phẩm văn học nghệ thuật, pháp luật hai hệ thống vẫn còn một số quy định khác nhau.

i. Thu nhập từ việc chuyển quyền sở hữu tác phẩm gốc

Công ước Berne có ghi nhận loại thu nhập đặc biệt dành cho tác giả khi chủ sở hữu của tác phẩm gốc, bản thảo gốc chuyển nhượng tác phẩm cho chủ thể khác (tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm). Loại thu nhập này được ghi nhận đầu tiên ở Pháp trước một thực tế các tác phẩm vốn chỉ có bản gốc đem lại cho các chủ sở hữu lợi nhuận khổng lồ khi chủ sở hữu chuyển nhượng tác phẩm vậy mà tác giả hay gia đình tác giả lại sống trong khó khăn. Quy định về loại thu nhập này sẽ khuyến khích các nghệ sĩ yên tâm sáng tác. Công ước Berne đã quy định về loại thu nhập này ở một mức độ khiêm tốn : một tác giả chỉ có thể đòi hỏi khoản thu nhập này tại một nước thành viên công ước khi nước mà tác giả là công dân cũng có quy định về thu nhập này, khoản thu nhập sẽ chỉ được tính trong giới hạn quy định của Pháp luật nước mà tác giả yêu cầu.

Các nước thành viên Liên Minh Châu Âu đã thừa nhận thu nhập này trong Chỉ thị 2001/84/CE. Nước Anh đã cụ thể hóa Chỉ thị với Quy chế ban hành năm 2006. Tuy nhiên ở Mỹ, quy định này chỉ có trong pháp luật một số bang như California…

ii. Ngoại lệ của Quyền tài sản

Trong thời hạn bảo hộ quyền tài sản đối với tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm nắm độc quyền cho phép hay không cho phép việc khai thác tác phẩm. Tuy nhiên để cân bằng giữa quyền của tác giả và quyền của công chúng, pháp luật mỗi nước có quy định một số trường hợp ngoại lệ. Đ25 Luật SHTT của Việt Nam quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút thù lao với điều kiện không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm, không được gây phương hại đến quyền của tác giả. Bộ luật SHTT của Pháp cũng đã quy định các trường hợp ngoại lệ mà quan trọng nhất là quyền sao chép nhằm phục vụ việc sử dụng cá nhân. Nói chung, các trường hợp ngoại lệ được liệt kê cụ thể, người sử dụng chỉ được viện dẫn ngoại lệ khi ngoại lệ này được nêu trong luật.

Các trường hợp ngoại lệ trong Luật Bản quyền của Hoa Kỳ không bị giới hạn cụ thể mà khi có tranh chấp phát sinh, tòa án sẽ xem xét việc sử dụng có vi phạm quyền bản quyền của chủ thể quyền hay không, với các căn cứ như: mục đích, bản chất việc sử dụng tác phẩm có liên quan hoạt động thương mại hay tìm kiếm lợi nhuận không ? Tác phẩm thuộc thể loại nào ? Số lượng bản sao tác phẩm đã được thực hiện ? Khả năng ảnh hưởng tới thị trường tác phẩm và giá trị tác phẩm (mục 107 Luật Bản quyền Hoa Kỳ).

Công ước Berne là công ước đầu tiên về quyền tác giả với sự tham gia của 164 thành viên. Công ước có các quy định về Nguyên tắc đối xử quốc gia, quy định coi các điều khoản của công ước là những nội dung cơ bản tối thiểu mà các quốc gia thành viên cần đảm bảo… Những lý do này giúp công ước Berne tạo ra một sự hài hòa giữa hệ thống pháp luật lớn vốn nhiều mâu thuẫn. Các nước trong hệ thống thông luật ghi nhận việc bảo vệ quyền tác giả không thông qua thủ thục đăng kí, ghi nhận quyền nhân thân cho tác giả của một số loại tác phẩm… Các nước trong hệ thống luật lục địa ghi nhận Quyền liên quan đến quyền tác giả để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư… Tuy nhiên, như phân tích ở trên, trong một số nội dung quan trọng, CƯ Berne nhường quyền định đoạt cho Pháp luật các quốc gia thành viên. Vì vây, Pháp luật Việt Nam với ưu tiên bảo vệ các tác giả, khuyến khích sáng tạo nghệ thuật, khoa học cần tiếp nhận thêm một số quy định mang tính tích cực của mỗi hệ thống, phù hợp với quy định của các Điều ước quốc tế : ghi nhận quy định tại K2Đ14 bis của CƯ Berne về việc hạn chế khả năng các tác giả tham gia xây dựng tác phẩm điện ảnh lạm dụng quyền nhân thân, cản trở việc khai thác tác phẩm của nhà sản xuất phim ; ghi nhận cho tác giả của một số loại hình tác phẩm được hưởng một tỉ lệ nhất định thu nhập của chủ sở hữu bản gốc tác phẩm khi người này chuyển nhượng bản gốc tác phẩm cho người khác…

5. Nguyên tắc độc lập bảo hộ theo Công ước Berne?

Là nguyên tắc nêu yêu cầu cho các quốc gia thành viên việc bảo hộ để công dân và các pháp nhân được hưởng và thực thi các quyền được cấp theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm.

(LVN GROUP FIRM: Phân tích và biên tập)