1. Khái quát chung

Biện pháp ngăn chặn hành chính xét về bản chất có nét tương đồng với các biện pháp cưỡng chế hành chính khác ở tính cưỡng chế nhà nước, bắt buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện hoặc không thực hiện hành vi nhất định. Tuy nhiên, nghiên cứu các đặc điểm của BPNC hành chính cho thấy, ngăn chặn hành chính là nhóm biện pháp độc lập trong hệ thống cưỡng chế hành chính, đồng thời có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định các đặc điểm của nó, bao gồm: 1) Đặc điểm của BPNC hành chính phụ thuộc vào quan niệm về phạm vi các nhóm ngăn chặn hành chính; 2) Xác định đặc điểm của ngăn chặn hành chính cần tính đến bản chất xã hội và đặc điểm của VPHC, bởi bản chất xã hội và đặc điểm của VPHC mang tính đặc thù, nó cũng quy định trước đặc điểm của BPNC hành chính được áp dụng nhằm mục đích gì? 3) Đặc điểm của BPNC hành chính có quan hệ chặt chẽ với đặc điểm quan hệ xã hội được bảo vệ, trong đó, đặc điểm của quan hệ xã hội chi phối đặc điểm và nội dung của BPNC hành chính. (4) Đặc điểm của BPNC hành chính được xác định trong bối cảnh đề cao quyền con người, quyền công dân trong thời kì xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, đặc điểm BPNC hành chính còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: đặc điểm của phương pháp điều chỉnh luật hành chính, các hình thức, phương pháp quản lý hành chính nhà nước, các yêu cầu về tổ chức và hoạt động của quản lý hành chính nhà nước.
Từ việc xem xét các yếu tố và phân tích nói trên, cho thấy BPNC hành chính có những đặc điểm sau đây:

2. Là biện pháp cưỡng chế được áp dụng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước

 Đặc điểm này phân biệt với biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Ở Việt Nam, chúng ta phân biệt các hành vi VPHC với các hành vi tội phạm, không hình sự hóa các quan hệ hành chính nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Chính vì vậy, thuật ngữ ngăn chặn hành chính và ngăn chặn hình sự là hai thuật ngữ hoàn toàn độc lập. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự thiên về tính chất tư pháp, tác động trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt (đối tượng vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao cho xã hội), còn BPNC hành chính áp dụng trong phạm vi quản lý hành chính nhà nước và theo thủ tục hành chính (là vi phạm pháp luật ít nguy hiểm hơn nhưng đa dạng, phổ biến về loại vi phạm, số lượng vi phạm và chủ thể thực hiện hành vi vi phạm).

2.1 Nhằm làm chấm dứt kịp thời hành vi VPPL ngăn ngừa hậu quả và bảo đảm cho việc xử lý VPHC đạt hiệu quả

 Như vậy, khác với mục đích của các biện pháp cưỡng chế khác, mục đích của ngăn chặn hành chính là ngăn chặn VPPL có khả năng xảy ra dựa trên các dấu hiệu khẳng định trong ý chí chủ quan của chủ thể có thẩm quyền hoặc VPPL đã và đang xảy ra, từ đó nhằm hỗ trợ cho quá trình xử phạt VPHC hiệu quả chứ không phải nhằm mục đích trừng trị như trong các hình thức xử phạt, hay nhằm thực hiện thực tế nghĩa vụ đã không được chấp hành như các biện pháp khôi phục hành chính hoặc mục đích giáo dục, chữa bệnh như trong các biện pháp xử lý hành chính.

2.2 Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC hành chính chỉ có thể là các cá nhân có thẩm quyền

trong các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật. Điều này hoàn toàn khác với thẩm quyền áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự. Chủ thể có thầm quyền áp dụng BPNC hình sự là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc trong nhiều trường hợp, pháp luật còn trao cho tất cả mọi người quyền áp dụng BPNC đối với người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa họ trốn thoát trước khi cơ quan có thẩm quyền đến. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc trưng về khách thể của BPNC hình sự có tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội cao hơn trong ngăn chặn hành chính, đồng thời cũng xuất phát từ đặc trưng của quan hệ pháp luật hành chính với một bên chủ thể của quan hệ bắt buộc phải là chủ thể mang quyền lực nhà nước.

2.3 Phạm vi các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi các BPNC hành chính rộng và phong phú 

BPNC hành chính bảo vệ các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác nhau: hành chính, đất đai, dân sự, lao động… Ngăn chặn hình sự cũng bảo vệ phạm vi rộng các quan hệ xã hội tương tự như ngăn chặn hành chính nhưng các quan hệ xã hội do hai nhóm này bảo vệ không phải luôn trùng nhau. Có những quan hệ xã hội chỉ là đối tượng bảo vệ riêng của BPNC hành chính hay ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, ngăn chặn hành chính khác với ngăn chặn hình sự ở sự bảo vệ các quan hệ xã hội chi tiết, đa dạng hơn. Nhìn chung thì phạm vi các quan hệ xã hội được ngăn chặn hành chính bảo vệ rộng hơn so với ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

2.4 Căn cứ để áp dụng BPNC hành chính là các thông tin có đầy đủ cơ sở 

về việc thực hiện hành vi vi phạm của chủ thể. Đặc điểm này phân biệt ngăn chặn hành chính với phòng ngừa hành chính và xử phạt hành chính. Xử phạt là phán quyết cuối cùng của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật. Nội dung, mục đích của xử phạt mang tính trừng trị gắn liền với giáo dục và phòng ngừa vi phạm, khôi phục trật tự pháp luật. Xử phạt hành chính chỉ được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức khi thực hiện VPHC, cụ thể là hành vi đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành VPHC. Trong khi đó, ngăn chặn hành chính được áp dụng ngay cả khi hành vi đó chưa có đủ yếu tố cấu thành nên VPHC theo quy định, tùy theo từng loại hành vi cụ thể mà người có thẩm quyền có thể áp dụng ngăn chặn hành chính để đảm bảo làm chấm dứt vi phạm pháp luật, ngăn cho vi phạm không thể xảy ra hoặc có thể tiếp diễn hoặc để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt VPHC.
Biện pháp phòng ngừa hành chính là “cách thức mang tính cưỡng chế, có tổ chức của nhà nước, tác động đến cá nhân, tổ chức nhằm kích thích các hành vi hợp pháp của họ, bảo đảm, duy trì trật tự trong quản lý hành chính nhà nước hoặc ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại tới lợi ích xã hội, nhà nước, cá nhân, tổ chức trong tình huống bất thường của quản lý hành chính nhà nước”. Mục đích của biện pháp phòng ngừa hành chính là không để vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực hoạt động hành chính bằng việc kích thích các hành vi hợp pháp của đối tượng quản lý; ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại đến lợi ích của xã hội, nhà nước, cá nhân, tổ chức do tình huống bất thường trong quản lý nhà nước như trường hợp khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh…Từ đó có thể thấy căn cứ để áp dụng biện pháp phòng ngừa hành chính không hề liên quan đến vi phạm pháp luật xảy ra. Nhóm biện pháp này hướng tới việc loại bỏ những điều kiện, tiền đề có thể làm xuất hiện hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, về bản chất, tính phòng ngừa trong phòng ngừa hành chính sớm hơn tính phòng ngừa trong BPNC hành chính.

2.5 Sáu là, các BPNC hành chính có thủ tục áp dụng mang đặc điểm riêng 

BPNC hành chính được áp dụng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và phần lớn theo thủ tục hành chính, do đó, về cơ bản thủ tục áp dụng không đòi hỏi phức tạp, chặt chẽ như thủ tục áp dụng trong lĩnh vực tư pháp. Các BPNC hành chính có thể được áp dụng vào bất cứ thời điểm nào của quá trình xử lý VPHC như thời điểm thu thập thông tin, tài liệu nhằm xác minh hành vi vi phạm, cũng như trong suốt quá trình xem xét vụ việc để ra quyết định xử lý VPHC.

3. Vai trò của biện pháp ngăn chặn hành chính

Thứ nhất, ngăn chặn hành chính là một trong những biện pháp thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí của nhà nước trong công cuộc đấu tranh với vi phạm pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế.
Quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước được thực hiện thông qua nhiều cách thức khác nhau như: thuyết phục, cưỡng chế, hành chính, kinh tế… Biện pháp nào giữ vai trò chủ yếu tùy thuộc vào bản chất, tính xã hội của nhà nước. Phương pháp thuyết phục chiếm ưu thế trong xã hội mà ở đó lợi ích của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý về cơ bản là nhất trí, hoạt động quản lý nhà nước thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng trong quản lý hành chính nhà nước và xã hội chỉ cần các biện pháp thuyết phục bởi vì, trong xã hội còn tồn tại vi phạm pháp luật, còn sự chống đối, phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước nhằm phá hoại trật tự quản lý hành chính nhà nước và an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Vì vậy, phải kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng bức, dù thế nào đi nữa thì trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới cưỡng chế”.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, gây rối trật tự trị an, có thái độ chống đối lại chính quyền nhân dân, không chấp hành đường lối, chủ trương và pháp luật của nhà nước. Trong các trường hợp đó, việc áp dụng cưỡng chế không trái với nguyên tắc nhân đạo và dân chủ của nhà nước ta, trái lại, nó được thực hiện vì lợi ích chung của nhân dân, xã hội, nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá nhân. Không áp dụng cưỡng chế, hay coi nhẹ nó cũng có nghĩa là buông nhẹ kỷ cương dẫn tới tình trạng vô Chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, với nhiệm vụ, trách nhiệm và vai trò chính trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật, cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định, trong đó có các BPNC hành chính để tác động lên thân thể hoặc tâm lí của đối tượng vi phạm pháp luật buộc đối tượng phải chấm dứt ngay hành vi vi phạm, ngăn ngừa hậu quả của hành vi vi phạm và bảo đảm cho hoạt động xử lý VPHC.Thứ hai, ngăn chặn hành chính là biện pháp bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm trật tự quản lý hành chính nhà nướcTrong quản lý nhà nước, vấn đề chủ yếu và quan trọng là quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…để phát triển xã hội. Các biện pháp cưỡng chế hành chính có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý có hiệu quả.
Như chúng ta biết, ban hành văn bản quy phạm và điều hành hành chính là hoạt động chủ yếu được áp dụng nhằm thực hiện nhiệm vụ trong quản lý hành chính nhà nước, thể hiện rõ rệt chức năng quản lý hành chính nhà nước. Đây là hoạt động quản lý mang tính “tích cực”, nhờ đó mà định hướng, điều chỉnh, trợ giúp cho các mặt của đời sống xã hội đi vào sự ổn định, nề nếp. Chúng ta đồng ý rằng, một nhà nước vững mạnh khi duy trì được sự ổn định thông qua việc ban hành pháp luật đúng đắn, phù hợp và sự điều hành có nguyên tắc, kỷ cương, thu hút đông đảo nhân dân tham gia công việc nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhưng điều này không có nghĩa là quản lý hành chính nhà nước chỉ cần thực hiện các hoạt động ban hành văn bản pháp quy và điều hành hành chính, bởi trong xã hội, bất kì thời điểm nào, vi phạm pháp luật vẫn diễn ra, nó trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự ổn định của trật tự quản lý hành chính nhà nước. Trong trường hợp này, ngăn chặn hành chính là một trong các phương tiện cần thiết để ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, từ đó hỗ trợ, đảm bảo cho công tác xử lý vi phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thêm vào đó, trật tự quản lý hành chính nhà nước có được thông qua các hành vi hợp pháp các chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý và khi trật tự đó bị phá vỡ bởi các hành vi vi phạm pháp luật thì được thiết lập lại thông qua việc xử lý kịp thời, chính xác các hành vi vi phạm, khôi phục nhanh chóng hậu quả do hành vi đó gây nên. Ngăn chặn hành chính là một trong các biện pháp bảo đảm cho hoạt động xử lý vi phạm, tạo điều kiện cho quản lý hành chính diễn ra bình thường bằng cách loại bỏ những trở ngại là các vi phạm pháp luật, từ đó mà trật tự quản lý nhà nước được bảo vệ.
Thứ ba, ngăn chặn hành chính là phương tiện để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; đồng thời có vai trò to lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Không chỉ đối với nhà nước, ngăn chặn hành chính còn có vai trò tích cực đối với cá nhân, tổ chức- là đối tượng quản lý trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Việc áp dụng các BPNC hành chính mặc dù làm hạn chế quyền, lợi ích của một số người nhưng là để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác trong xã hội. “Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể là được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm…
Thứ tư, ngăn chặn hành chính là biện pháp có tính cách thủ tục nhằm bảo đảm cho hoạt động xử phạt VPHC.
Xử phạt VPHC là nhóm biện pháp độc lập nhằm mục đích trừng trị người vi phạm bằng cách tước bỏ quyền hạn, đặt ra nghĩa vụ mới bổ sung như phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép… hoặc bằng cách lên án có tính giáo dục tinh thần như cảnh cáo… Các hình thức xử phạt VPHC thể hiện sự đánh giá cuối cùng của nhà nước đối với người vi phạm có lỗi, là sự giải quyết thực chất vụ việc vi phạm, qua đó hướng đến mục đích trừng trị, giáo dục của pháp luật. Trong khi đó, các BPNC hành chính như phân tích ở trên, có mục đích làm chấm dứt kịp thời hành vi vi phạm, không nhằm trừng trị người vi phạm mà chỉ tạo các điều kiện thuận lợi,  mang tính thủ tục nhằm hỗ trợ cho việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm. Ở các nước phát triển, vấn đề quản lý con người, quản lý dân cư được thực hiện khoa học,đồng bộ, chính vì vậy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm xử lý VPHC như: Tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề…. là không cần thiết và thường xuyên. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp này được coi là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo đảm xử lý VPHC. Việc áp dụng các BPNC hành chính không làm triệt tiêu quyền sở hữu của chủ thể đối với các loại giấy tờ, phương tiện hay quyền tự do đi lại đối với người vi phạm mà chỉ mang tính thủ tục tạo điều kiện cho hoạt động xử phạt VPHC.
Thứ năm, ngăn chặn hành chính có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật, ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại tới lợi ích của xã hội, nhà nước, cá nhân, tổ chức, qua đó củng cố trật tự xã hội.
Ngăn chặn hành chính ngoài vai trò đối với nhà nước và các cá nhân, tổ chức nhất định, thì còn có vai trò, ý nghĩa đối với toàn xã hội nói chung.
Ngăn chặn hành chính tác động lên đối tượng bị quản lý bằng hai hình thức: tác động trực tiếp lên thể chất và tác động gián tiếp qua tâm lí của đối tượng. Như trên đã trình bày, việc phân biệt hai hình thức tác động này chỉ mang tính chất  tương đối, bởi vì tác động lên thể chất cũng đồng thời tác động lên tâm lí của người vi phạm và những người khác, qua đó có tác dụng giáo dục ý thức pháp luật của con người, kích thích các hành vi hợp pháp trong xã hội. Các BPNC hành chính tác động lên suy nghĩ, tình cảm của họ, gây ra những biến đổi trong tâm lí, động cơ, mục đích. Ban đầu, đối với người có hành vi được thực hiện, người ta kiểm soát hành vi chủ yếu do sự lo sợ cho bản thân. Còn về sau, người ta thực hiện hành vi là do sự tự giác. Sự chuyển biến tâm lí này sẽ giúp cho con người sống có kỉ luật hơn, từ đó dần dần hình thành nên ý thức pháp luật. Khi có ý thức pháp luật, con người có điều kiện rèn luyện thói quen xử sự theo quy định của pháp luật, đây lại là nhân tố kích thích các hành vi hợp pháp trong xã hội.
Ngăn chặn hành chính có vai trò giáo dục ý thức pháp luật, đồng thời làm cho mọi người nhận thức đúng sự công bằng và tính tất yếu của sự cưỡng chế. Từ đó, tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, hạn chế thấp nhất sự vi phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, con người ngày càng hoàn thiện, xã hội hình thành những công dân tự giác và tuân thủ pháp luật, trật tự quản lý hành chính nói riêng hay trật tự xã hội nói chung ngày càng được củng cố.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hành chính – Công ty Luật LVN Group