1. Khái quát chung về tính xác thực của dữ liệu video

Thông tin luôn có một vai trò to lớn trong đời sống xã hội, trong lịch sử và ngày nay. Kiểm soát thông tin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các cá nhân, tổ chức và quốc gia. Sự phát triển vượt bậc về khoa học, công nghệ hiện nay đã đưa loài người vào kỷ nguyên mới của thông tin nhưng cũng đặt ra những thách thức nghiêm trọng. Một trong số đó là độ tin cậy, tính xác thực của thông tin. Trong kỷ nguyên số ngày nay, kỹ thuật truyền thông và nén dữ liệu tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, chia sẻ dữ liệu đa phương tiện như video. Tuy nhiên, các công cụ chỉnh sửa xuất hiện ngày càng phổ biến thường được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau để thay đổi nội dung dữ liệu video đã ảnh hưởng trực tiếp đến tính xác thực, chính xác của thông tin. Do đó, đảm bảo tính xác thực và độ tin cậy, chính xác của một bản ghi video kỹ thuật số ngày càng cấp thiết.Trong một số lĩnh vực, tính xác thực của dữ liệu video được quan tâm hàng đầu như giám định kỹ thuật hình sự, tố tụng hình sự, thực thi pháp luật và quyền sở hữu nội dung. Điều quan trọng là phải thiết lập độ tin cậy của bất kỳ dữ liệu video nào được sử dụng làm bằng chứng trong các hoạt động thực thi pháp luật. Tuy nhiên, hiểu đúng bản chất về tính xác thực của bản ghi dữ liệu video còn nhiều tranh cãi. Chưa có bất kỳ văn bản pháp quy nào chỉ rõ tiêu chí để xác định một bản ghi dữ liệu video được coi là xác thực.

2. Chứng cứ trong bộ luật tố tụng hình sự 2015

Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
Điều 86. Chứng cứ
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Khoản c điểm 1 Điều 87 BLTTHS 2015 quy định dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ. Dữ liệu video là một dạng của dữ liệu điện tử; do đó, để sử dụng làm chứng cứ, quá trình thu thập dữ liệu video phải đảm bảo ba thuộc tính: tính khách quan, tính hợp pháp và tính liên quan của dữ liệu.
Điều 87. Nguồn chứng cứ
1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
c) Dữ liệu điện tử

Tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng nêu rõ:

Điều 88. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

3. Đặc điểm của dữ liệu điện tử

3.1 Tính khách quan

Dữ liệu video là “thật”, tức là đúng với sự thật, sự việc xảy ra, tồn tại khách quan, có nguồn gốc rõ ràng, không bị cắt ghép, chỉnh sửa, biên tập nội dung; đã được tìm thấy và đang lưu trên máy tính, điện thoại di động, email, USB, tài khoản trên mạng…

3.2 Tính hợp pháp

Dữ liệu phải được thu thập đúng quy định của BLTTHS, sử dụng các công cụ, phương tiện, công nghệ được pháp luật công nhận. Trong cả quá trình khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng, sao lưu điện tử, bảo quản, phục hồi, phân tích, tìm kiếm, giám định dữ liệu và khi sử dụng chứng cứ, phải kiểm tra tính hợp pháp của biện pháp thu thập.

3.3 Tính liên quan

Dữ liệu thu được có liên quan đến hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, nạn nhân, hậu quả…, được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ án. Tính liên quan thể hiện ở nguyên lý, cơ chế hình thành dữ liệu video, thông tin về không gian, thời gian hình thành dữ liệu, địa chỉ lưu trữ, nội dung thông tin, thời gian phạm tội… Đề cập đến nội dung tính xác thực, từ điển Tiếng Việt giải thích: “Xác thực là chắc chắn đúng sự thật”. Xác thực là một hoạt động nhằm thiết lập hoặc chứng thực một đối tượng nào đó (người hoặc vật) đáng tin cậy, là sự thật. Xác thực video là một quá trình để thiết lập độ chính xác và trung thực của video kỹ thuật số. Nói cách khác, một bản ghi video được coi là xác thực, tức là đã đảm bảo tính khách quan của chứng cứ và ngược lại. Chứng cứ là dữ liệu điện tử không khác gì chứng cứ vật chất, cả hai đều phải đảm bảo tính khách quan, xác thực trong quá trình thu thập. Sự khác biệt chủ yếu giữa chứng cứ điện tử và chứng cứ vật chất thông thường ở bản chất động, có thể dễ dàng thay đổi và bị thay đổi, cố ý hoặc vô ý của chứng cứ điện tử.

4. Nội dung xác minh, kiểm tra tính xác thực của dữ liệu video

Về bản chất, dữ liệu video có thể thu được từ nhiều nguồn khác nhau như: Máy ghi hình, hệ thống camera giám sát, camera hành trình, máy tính, điện thoại di động, không gian mạng (facebook, twitter, youtube, trình duyệt web)… Nhìn chung, bất kỳ ứng dụng video nào thường tồn tại ba bên: Nhà sản xuất, người nhận và bên thứ ba. Nhà sản xuất tạo video và người nhận nhận video từ nhà sản xuất thông qua bên thứ ba. Bên thứ ba là khái niệm chung và rộng, có thể là một kho lưu trữ dữ liệu trong các sản phẩm tiêu dùng (như đĩa CD/DVD, USB, thẻ nhớ…). Hơn nữa, một người nhận cũng có thể là bên thứ ba nếu sau khi nhận được video, chuyển tiếp video cho bất kỳ bên nào khác. Các đối tượng thường hướng đến dữ liệu video thuộc bên thứ ba này để tấn công, chỉnh sửa, thay đổi nội dung.
Theo đó, xác thực dữ liệu video chính là xem xét, đánh giá các nội dung được ghi có phải là chân thật và tin cậy không. Nội dung xác thực có thể được phân loại thành 2 nhóm: Nhóm nội dung thứ nhất là xác minh nội dung dữ liệu video có phù hợp với thông tin đã được biết hoặc được viện dẫn về sự việc trong quá trình điều tra, bao gồm:Xác minh âm thanh, hình ảnh được nghe, được quan sát trong video có phù hợp với người được cho là xuất hiện ở thời điểm ghi không;Xác minh thời gian video được tạo thành có phù hợp với thời gian xảy ra vụ việc được ghi hình không;Xác minh dữ liệu video được tạo thành có đúng ở địa điểm được viện dẫn không. Nhóm nội dung thứ hai là xác minh tính nguyên gốc, nguyên thủy của dữ liệu video, xem xét video có bị tác động, can thiệp làm thay đổi nội dung không. Đối với giám định viên kỹ thuật số và điện tử, hoạt động này được thực hiện thường xuyên dựa vào những thông tin về việc thay đổi bản ghi video một cách cố ý.
Do vậy, giám định xác thực chủ yếu liên quan đến các nội dung sau: Bản ghi dữ liệu video là nguyên thủy hay là bản sao; Kể từ thời điểm được sản xuất, có bản ghi khác nào được chỉnh sửa hoặc biên tập chưa;Bản ghi có phải được tạo thành trên phương tiện ghi nguyên gốc không; Những nội dung ghi có phù hợp với những gì đã biết hoặc được viện dẫn không. Một bản ghi dữ liệu video được nghiên cứu, đánh giá là nguyên bản và không bị tác động, tức là nó có tính nguyên vẹn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa nó là video có tính xác thực bởi vụ việc được ghi hình có thể bị dàn cảnh theo nhiều cách khác nhau. Không được sử dụng làm chứng cứ nếu bản ghi hình được xác định không chính xác về thời gian thực hiện hoặc không phải là một bản ghi đầy đủ về vụ việc được ghi hình. Trong hoạt động tố tụng hình sự, nhóm nội dung thứ nhất được xác minh chủ yếu thông qua các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn của Cơ quan điều tra hoặc các chủ thể trưng cầu giám định khác. Cơ quan giám định chỉ hỗ trợ xác minh một phần như: Việc so sánh tiếng nói về đặc điểm ngôn ngữ, hình ảnh khuôn mặt có thể cung cấp nội dung hỗ trợ xác minh tiếng nói được nghe, hình ảnh được quan sát trong bản ghi có phù hợp với người được cho là xuất hiện ở thời điểm ghi không. Sử dụng chương trình xác định thời gian trong bản ghi hình để xác định thông tin về thời gian ghi. Nếu bản ghi hình không có những thông tin về thời gian đáng tin cậy như là một phần của cấu trúc dữ liệu thì rất khó xác thực thời gian ghi. Bằng cách kiểm tra số sê ri băng, cũng có thể xác định được thời gian khi bản ghi được thực hiện là sau ngày sản xuất băng. Đối với nhóm nội dung thứ hai, xác định tính toàn vẹn của bản ghi là nội dung chủ yếu, thường xuyên của cơ quan giám định và Giám định viên.
Từ những phân tích trên, có thể thấy bản ghi được coi là xác thực khi đảm bảo đủ các nội dung sau: Xác thực về thời gian, địa điểm khởi ghi dữ liệu video; Xác thực về con người trong dữ liệu video; Xác thực về nội dung (bản ghi không bị dàn cảnh hoặc cảnh quay không bị giả tạo) và Bản ghi không có dấu hiệu bị cắt, ghép, chỉnh sửa, biên tập lại nội dung. Còn quá trình truyền tải, xử lý, chuyển đổi video có thể làm thay đổi, biến đổi về khía cạnh cấu trúc dữ liệu ở một góc độ nào đó và nếu không ảnh hưởng đến nội dung được truyền tải, phản ánh thì vẫn có thể coi bản ghi video đó là xác thực.